Kiến Thức Chung

Đôi nét về Nhà văn Tô Hoài

 

1 – Vài nét về tiểu sử và con người     

 Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen sinh ngày 07 – 9 – 1920 tại làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức – tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô – quận Cầu Giấy – Hà Nội) trong một gia đình thợ thủ công. Ông còn có nhiều bút danh khác như: Mai Trung, Duy Phương, Mắt Biển, Hồng Hoa, Vũ Đột Kích,…

Quê quán : xã Kim An – huyện Thanh Oai – tỉnh Hà Tây.

Tuổi thanh niên, Tô Hoài phải trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống như : dạy học tư, bán hàng, làm kế toán cho hiệu buôn, …  Năm 1938, ông chịu ràng buộc của Mặt trận Dân dã và tham gia hoạt động trong tổ chức Hội ái hữu thợ dệt và Thanh niên dân chủ Hà Nội.

Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và khởi đầu viết bài cho báo Cứu quốc và Cờ giải phóng.

Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài làm Chủ nhiệm báo “Cứu quốc”. Ông là một trong số những nhà văn trước tiên Nam tiến và tham gia một số chiến dịch ở mặt trận phía Nam (Nha Trang, Tây Nguyên…). Năm 1946, ông được kết nạp vào Đảng.

Năm 1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến năm 1980, Tô Hoài đã kinh qua nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà văn như : Uûy viên Đảng Đoàn, Phó Tổng thư kí, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, Giám đốc Nhà xuất bản Thiếu nhi.

Đến với con đường văn nghệ từ cuối những năm ba mươi cho đến nay, Tô Hoài đã sáng tác được một số lượng tác phẩm khổng lồ (hơn một trăm năm mươi đầu sách) ở nhiều thể loại khác nhau như : tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà, vào năm 1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.

 Tác phẩm của Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám :

Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột (1942), Giăng thề (1943), Nhà nghèo (1944), Xóm Giếng ngày xưa (1944), Cỏ dại (1944).

Tác phẩm chính của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám :

– Truyện ngắn : Núi cứu quốc (1948), Xuống làng (1950), Truyện Tây Bắc (1953, Giải nhất tiểu thuyết năm 1956 của Hội Văn nghệ Việt Nam), Khác trước (1957), Vỡ tỉnh (1962), Người ven thành(1972).

– Tiểu thuyết : Mười năm (1957), Miền Tây (1967, Giải thưởng Bông sen vàng năm 1970 của Hội Nhà văn Á Phi), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Tự truyện (1978), Những ngõ phố, người đường phố(1980), Quê nhà (1981, Giải A năm 1980 của giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội), Nhớ Mai Châu (1988).

– Kí: Đại đội Thắng Bình (1950), Tp Lênin (1961), Tôi thăm Cămphuchia (1964), Nhật kí vùng cao (1969), Trái đất tên người (1978), Hoa hồng vàng song cửa (1981). Cát bụi chân ai (1992).

– Truyện thiếu nhi : Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999)

– Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác : Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959), Người độc giả ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Văn nghệ và phương pháp viết văn (1997).

Tô Hoài có nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đặc biệt Dế mèn phiêu lưu kí được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất.

Nhìn chung, Tô Hoài là một nhà văn sớm bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm tham gia hoạt động cách mạng. Ông viết ở nhiều thể loại và thể loại nào ông cũng đạt được những thành công đặc sắc. Nhất là ở những tác phẩm viết về loài vật và miền núi Tây Bắc. Tô Hoài luôn có những phấn đấu tìm tòi, tìm tòi trong sáng tạo văn nghệ, đó là một trong những yếu tố góp phần làm ra sức mê hoặc, sức sống và ý nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông so với đời sống trí não của người đọc nhiều thế hệ.

2 – Những hành trình sáng tác:  

2.1 – Trước Cách mạng tháng Tám:

Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười bảy, mười tám. Những sáng tác đầu tay của ông được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy. Tuy xuất hiện ở giai đoạn cuối của thời kì 1930 – 1945 nhưng Tô Hoài đã sớm nhất định được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kì này bằng một loạt tác phẩm mới mẻ, đặc sắc như : Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột (1942), Trăng thề (1943) Nhà nghèo (1944 ). Từ các tác phẩm này, người đọc dễ nhận thấy sức sung mãn dồi dào trong lao động văn nghệ của ông. Sau này, Tô Hoài đã bộc bạch chân tình qua Tự truyện về việc ông đến với nghề văn, ông viết : “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước Cách mạng tháng Tám, 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện vừa, ba tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế mèn thì mấy chục truyện, cái in, cái chưa in, vương vãi lung tung tôi không nhớ hết. Cũng chẳng có gì lạ. Viết để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc khỏe như vậy đấy”.

Tác phẩm của Tô Hoài trước cách mạng có thể phân thành hai loại chính là : truyện về loài vật và truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo.

Qua những truyện về loài vật tiêu biểu như : O chuột, Gã chuột bạch, Tuổi trẻ, Đôi ghi đá, Một cuộc bể dâu, Mụ ngan, Đực…, người đọc nhận thấy, nhà văn thường viết về cái tốt đẹp, nhất định cái thiện trong cuộc sống, bộc bạch muốn một cuộc sống hạnh phúc, bình yên trong xã hội, một cuộc sống tốt đẹp mang tính không tưởng.

Trước hết, với Dế Mèn phiêu lưu kí, tài năng văn nghệ của Tô Hoài được bộc lộ ở nhiều phương diện. Bằng cách xem xét, cái nhìn tinh tế về loài vật, phối hợp với những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã lôi cuốn các em vào toàn cầu loài vật bé nhỏ thân thiện, mê hoặc và kì thú qua hình ảnh của: Dế Mèn, Dế Trũi như anh em kết nghĩa vườn đào, sẵn sàng quên mình vì bạn, vì nghĩa lớn. Xiến Tóc trầm lặng, vừa yêu đời vừa chán đời. Chị Cào Cào ồn ào và duyên dáng. Bọ Ngựa kiêu căng, ngạo mạn. Cóc huênh hoang, dở người. Ếch uyên thâm giả. Chàng trai Kỉm Kìm Kim hèn đớn. Cậu công tử bột Chim Chả Non có mẽ mà đầu óc lại rỗng tuếch,… Từ đời sống và tích cách của từng con vật, nhà văn nhằm bộc bạch tư tưởng của mình về nhân sinh, về khát vọng chính đáng của người lao động, về một cuộc sống hòa bình, yên vui, về tình thương, lòng chân tình và sự đoàn kết. Bởi thế mẩu truyện về chú Dế Mèn không chỉ có ý nghĩa dành cho trẻ em, mà còn cả cho người lớn và cho cả xã hội. Nó thực sự mang giá trị lâu bền trong đời sống trí não của con người, cũng vì thế, dù ở đâu và ở thời kì nào, người đọc vẫn tìm thấy bao điều thú vị, bao bài học ý nghĩa từ tác phẩm này. Sau này, Tô Hoài tâm sự: “Cách hiểu thế giới đại đồng của Dế Mèn, Dế Trũi, Xiến Tóc… là cách hiểu chủ nghĩa cộng sản của tôi với vẻ đẹp và cả cái trống rỗng thiếu sót trong suy nghĩ  của tôi”.

Viết về loài vật, Tô Hoài đã dành khá nhiều trang để trổ tài chân thực, sinh động họ nhà chuột. Các mẫu mã chuột như : chuột nhắt, chuột cống, chuột cộc, chuột bạch, chuột xù…, xuất hiện trong các tác phẩm của ông với những dấu hiệu, thói quen riêng và cả những mối quan hệ của chúng. Trong số những truyện viết về chuột thì truyện Gã chuột bạch đã để lại cho người đọc bao điều tư duy. Cuộc sống của vợ chồng chuột bạch là “vẩn vơ tìm những hạt gạo tẻ mà người ta rắc vào một cái đĩa ở đáy lồng”, là “đánh vòng”, dựa vào lồng “ngủ đứng”. Ngay cả khi có dịp ra khỏi lồng chúng vẫn không lấy gì làm thích thú mà “ngơ ngác nhìn quanh quẩn. Như là họ hít phải cái không khí lạ. Như là họ hít phải cái không khí lạ. Như là họ chẳng quen bò giữa nơi khoáng đãng. Và họ lại nối đuôi nhau , tha thẩn, từ từ bò vào, cũng như lúc bò ra”. Có thể nói, qua cảnh sống của vợ chồng chuột bạch, Tô Hoài đã phê phán lối sống nhàm chán, buồn tẻ và vô vị, cũng như tâm lí chấp thuận, phụ thuộc của một lớp người trong xã hội, đồng thời muốn thức tỉnh những ai đang lâm vào cảnh sống đó.

Xem Thêm :   100 động từ tiếng Trung thông dụng | Phần 1 | từ vựng tiếng Trung

Xem Thêm :  Soạn bài đoàn thuyền đánh cá

Nhiều loài vật khác qua cách mô tả của Tô Hoài tạo cho người đọc dấu ấn lâu bền. Đó là gã mèo mướp “lừ đừ nghiêm nghị tựa một thầy dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quý phái và trưởng giả. Lúc nào cũng nghĩ ngợi như sắp mưu toan một việc gì ghê gớm lắm”. Đó là cậu gà trống gi “bé nhỏ sống côi cút một thân, một mình” thuở nhỏ, nhưng khi lớn lại có “bộ mặt khinh khỉnh ta đây” và cũng rất đa tình, “có tật mê gái, như cái tính chung của loài gà – cả của loài người – khi mới lớn lên”, bỏ nhà ra đi vì tình ái, hay dễ quên đi tình ái cũ để “lần mò đi tìm một vài ái tình khác”. Với chàng gà chọi “nhất sinh chỉ có một nghề đi đánh lẫn nhau cho người ta xem”, “lúc nào cũng chỉ ngứa ngáy chân tay”, quả không đủ chữ nghĩa để “tả cái oai lẫm liệt của chàng”. Chàng ta không thiết gì đến con cái, trong đầu “chỉ đen những ý tình ma chuột”, hay “đi ve gái”, vậy mà khi Một cuộc bể dâu xuất hiện, họ nhà gà chết dần, chết mòn, chàng gà chọi dù người hùng, lẫm liệt nhưng rồi cũng “tắc thở” để lại “một mình chị mái già, ra lại vào, ngẩn ngơ”. Với vợ chồng Đôi gi đá “tựa vợ chồng quê mới rủ nhau lên tỉnh. Họ lờ khờ, ngẩn ngơ, xấu xí – nghĩa là đặc nhà quê”. Chúng cần mẫn xây tổ ấm, sống hạnh phúc, “bình lặng, chịu khó, ít ồn ã”, chờ ngày đẻ trứng, chờ ngày trứng nở, chờ những đứa con lớn lên từng ngày… Thế rồi, Tết đến, tiếng pháo nổ đón xuân về vô tình đã làm tan tác gia đình chúng. Nghe tiếng pháo “kinh khủng nổ vang động trong cây, cả nhà cuống cuồng bay đi”. Cuộc sống của đôi vợ chồng chim gi đá rồi sẽ như vậy nào trong cảnh tan tác đó đã khiến cho người đọc phải ngậm ngùi, xót xa. Còn Mụ ngan với “cái tính ngu tối, chậm chạp” đến mức những đứa con của mình gặp nạn, hay bị chết vẫn vô tình, thản nhiên. Kể cả khi bị đá, bị đuổi đánh,“bị bỏ tù” thì “chúng vẫn không hiểu chi”. Hơn thế nữa khi “chồng mụ” bị làm thịt, mụ vẫn “thản nhiên”, mụ ngan chỉ nhớ rõ “khi có hạt ngô đo đỏ, hạt thóc vàng vàng, tàu lá xanh xanh thì xô đến mà khởi sự ăn”.

Cùng với hình ảnh của những loài vật trên là của chú chó Đực ham vui, “la cà” với “hàng tá nhân tình” nên bị người ta thiến. Đực “buồn thỉu, buồn thiu, đi lừ khừ quên cả ăn uống”. Tuổi xuân của Đực qua nhanh, nó trở nên “lạnh lùng với cuộc đời và lạnh lùng với tháng ngày”, nó “lặng lẽ sống cái cuộc đời tàn cục buồn thiu”, “héo hắt dần”. Tác phẩm kết thúc với sự xuất hiện của một con chó khác cũng “khỏe và béo lẳn” nhưng rồi thân phận của nó chắc gì đã khác với con Đực.

Tóm lại, toàn cầu loài vật trong tác phẩm của Tô Hoài thật mới mẻ. Toàn cầu ấy gợi lên ở người đọc sự liên tưởng về nhiều vấn đề trong đời sống xã hội. Có thể, từ trước cho đến nay, trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào viết về loài vật nhiều và đặc sắc như Tô Hoài. 

Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh sống đói nghèo cũng được nhà văn đã mô tả chân thực và sinh động. Cuộc sống cùng quẫn bế tắc của những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu dạt nơi đất khách quê người, những người thợ thủ công bị phá sản xuất hiện dần qua từng trang sách với toàn bộ niềm thông cảm chân tình của nhà văn. Đó là thân phận của bà lão Vối trong truyện Mẹ già buộc lòng nhẫn nhục sống nương nhờ vào con. Chỉ vì một con lợn sổng chuồng mà bà bị chính con gái mình chửi rủa chì chiết đủ điều. Với cách nghĩ của con gái bà thì bà chẳng khác gì người đi ở mướn, chị ta đã quát : “Thế tôi nuôi bà để làm gì mà bà lại không trông được con lợn?”, thậm chí, không cho bà ngủ ở nhà trên mà đuổi bà xuống bếp nằm ngủ ở đống rơm. Sáng ngày hôm sau cả nhà ăn uống nhưng hình như họ đã quên là có bà hiện diện trong cuộc sống của gia đình mình. Đó là số phận của chị Hối trong truyện Ông cúm bà co, bị ốm nhưng không có thuốc men chữa chạy, rồi bệnh trở nặng dần vì kém hiểu biết, mê tín, kết cục phải “ra đồng” bỏ lại mấy đứa con thơ dại. Đó còn là tấn bi kịch của anh Gà Gáy trong truyện ngắn cùng tên. Từ đâu lưu lạc tới không ai rõ, chịu khó làm ăn cho đến khi có một “gia đình nho nhỏ, đề huề sống yên vui” … Thế nhưng, vì cơn ghen vô cớ của anh khiến người vợ bỏ đi biệt tích. Đứa con, niềm an ủi duy nhất so với anh ngã bệnh, hết tiền chữa chạy, trong lúc khốn cùng đành liều đi ăn trộm để rồi bị tóm gọn, đồng thời đó đứa con cũng chết. Từ đó “Gà Gáy sống còm cõi một mình”. Cay đắng hơn là số phận của bé Gái trong cảnh Nhà nghèo. Nó sinh ra trong gia đình nghèo khổ, túng thiếu và nhiều lần nhìn thấy cảnh cha mẹ cãi nhau. Nó bị rắn cắn chết trong khi cùng với cha mẹ cố tìm miếng ăn cho gia đình, “người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết ra cả”. Cảnh đó thật xót xa, thê thảm.      

Còn biết bao những cảnh đời khác như cảnh Hương Cay trốn nợ trong Khách nợ, cảnh xung đột của gia đình anh Hối trong Buổi chiều ở trong nhà, cảnh tình duyên của cô Lụa trong Lụa,… Toàn bộ cảnh đời của họ đều gợi cho người đọc bao điều suy ngẫm và nỗi trằn trọc về hiện thực cuộc sống nhiều xấu số đó. 

Đáng Note ở thời kì này, Tô Hoài cũng có những khát vọng thoát khỏi bế tắc, thoát khỏi cuộc sống nhàm chán buồn tẻ và vô vị, hay ước mong của môt chàng trai về “một trận mưa rào cho lòng người hả hê và cho trời quang đãng” và hãy cất bước vào một buổi mai, nhắm về phía “chân trời mới đỏ thắm màu hi vọng”, mặc dù vì nghèo nên anh không lấy được người mình yêu. “Sự nghiệp anh không có”, “nhà anh thanh bạch quá”, “bấy nay anh chỉ có một tấm lòng”(Xóm Giếng ngày xưa ).

Tóm lại, trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã có khi bế tắc trước cuộc sống nhưng cuối cùng nhà văn vẫn đứng vững ở vị trí của một nhà văn hiện thực. Tâm hồn của Tô Hoài lúc nào cũng có được vẻ đẹp trong sáng, đáng trân trọng trong cảnh đời đen tối thời kì này. Ở đề tài nào và đối tượng tìm tòi nào, toàn cầu văn nghệ của Tô Hoài trước cách mạng đều thấm đượm tính nhân văn và mang dấu ấn khá sâu đậm về một quãng đời của ông. Ông tư tưởng :“ Những sáng tác của tôi đều miêu tả tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình quanh mình. Những nghèo đói, cùng túng, đau đớn. Phần nào nhẹ nhàng hay xót xa, hay ngịch ngợm và đá chút khinh bạc là phần nào con người và tư tưởng tiểu tư sản của tôi”(Một quãng đường).  

Xem Thêm :   Sách Giáo Khoa Hóa Học Lớp 11 Cơ Bản – Trang 1

Xem Thêm :  Text trong premiere – cách chèn chữ vào video bằng premiere

2.2 – Sau Cách mạng tháng Tám:

Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng và sáng tác. Tâm trạng trằn trọc, phân vân định hướng không dừng lại quá lâu ở Tô Hoài. Ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và sáng tạo thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể loại loại khác nhau. Trong số đó, tiểu thuyết Miền Tây của ông đạt giải thưởng Bông sen vàng của Hội Nhà văn Á Phi vào năm 1970.

Bước chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được trổ tài rõ ở cả đề tài và đề tài. Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ảnh trong phạm vi của một vùng dân nghèo ngoại thành Hà Nội nơi ông từng gắn bó, mà ông còn hướng tới một không gian rộng lớn, đến với cuộc sống của nhiều lớp người, nhiều vùng đất khác nhau, nổi trội nhất là miền núi Tây Bắc. Tây Bắc không còn là miền đất xa lạ, nó đã trở thành quê hương thứ hai của Tô Hoài. Ông viết về Tây Bắc không chỉ bằng tài năng văn nghệ, vốn sống phong phú, mà còn bằng cả tình yêu đằm thắm thiết tha như chính quê hương mình. Bởi lẽ, với Tô Hoài: “Đất nước và người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”, hình ảnh Tây Bắc “lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi”, nó có sức ám ảnh mạnh mẽ khơi dậy nguồn cảm xúc sáng tạo và xúc tiến nhà văn viết thành công nhiều tác phẩm về miền đất này. Trên nền tảng đó, có thể xem ông là nhà văn của miền núi Tây Bắc, là một trong những người đặt nền tảng cho nền văn học viết về đề tài Tây Bắc.

Tác phẩm trước tiên của Tô Hoài viết về miền núi là tập truyện Núi Cứu quốc(1948). Ở tác phẩm này ông đã trổ tài được cảnh sống vất vả, thiếu thốn, nhưng giàu nghĩa tình so với cách mạng, cũng như ý chí quyết tâm chiến tranh của đồng bào miền núi. Tuy nhiên, tác phẩm này còn nặng về trổ tài, mô tả các tài liệu, mặt phẳng của vấn đề mà ít đi vào tìm tòi chiều sâu, bản chất của nó để rồi “chết chìm trong tài liệu” như nhà văn đã tâm sự trong Một số kinh nghiệm viết văn của tôi. Vì thế, tác phẩm trên còn thiếu sự sinh động, thiếu sức mê hoặc so với người đọc.  

Phải đến Truyện Tây Bắc, Tô Hoài mới có được sự thành công đặc sắc ở mảng đề tài về miền núi Tây Bắc. Bằng tài năng văn nghệ và vốn sống phong phú về Tây Bắc, ông đã trổ tài được một cách chân thực, sinh động những nỗi đau thương, khổ nhục của họ dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù thực dân phong kiến. Tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A Phủ. Hình ảnh người lao động miền núi Tây Bắc nghèo khổ, mà nhất là người phụ nữ trong tập truyện này được Tô Hoài mô tả với toàn bộ niềm thông cảm sâu sắc. Cảnh đời của Mị, một cô dâu gạt nợ chết dần, chết mòn trong địa ngục trần gian của nhà thống lí Pá Tra, hay thân phận của cô Aûng, từ cô gái có vẻ đẹp nổi tiếng ở Mường Cơi bị xem như món đồ chơi qua tay nhiều quan châu, quan lang, chúa đất cho đến khi tàn tạ trở thành bà lão Ảng hành khất…, đã để lại cho người đọc biết bao điều tư duy về cuộc sống đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ Tây Bắc dưới sự đè nén áp bức nặng nề của thực dân và phong kiến ở miền núi. Mặt khác, qua tập truyện trên, Tô Hoài đã nhất định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người miền núi Tây Bắc, cũng như lí giải thành công về con đường tất yếu họ phải tìm đến để thoát khỏi cuộc sống bị đọa đày áp bức đó là con đường cách mạng. 

Có thể nói, Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước ngoặt trọng yếu trên con đường sáng tạo văn nghệ, và bộc lộ sự nhận thức đúng đắn của Tô Hoài về mối quan hệ giữa văn nghệ với cách mạng.

Tài năng văn nghệ của Tô Hoài khi viết về miền núi càng về sau càng  được phát huy và nhất định qua nhiều tác phẩm khác từ sau 1955 như : Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Họ Giàng ở Phìn Sa, Nhớ Mai Châu,… Nhà văn tiếp tục ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của các dân tộc ở miền núi Tây Bắc trong đời sống kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua những hình ảnh thực như : Hoàng Văn Thụ (dân tộc Tày), Kim Đồng (dân tộc Nùng), Giàng A Thào, Vừ A Dính (dân tộc Hmông)… Toàn bộ họ đều thủy chung, gắn bó son sắt với cách mạng và cuộc sống mới. Nhiều người đã ngã xuống vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho quê hương quốc gia. Chủ nghĩa người hùng cách mạng

Trong số tác phẩm viết về miền núi Tây Bắc sau 1955 của Tô Hoài, tiểu thuyết Miền Tây là tác phẩm nổi trội nhất. Miền Tây có cốt truyện xoay quanh sự đổi đời của gia đình bà Giàng Súa nhờ cách mạng. Cách mạng đã mang lại cho gia đình bà nhiều niềm vui giản dị trong cuộc sống đời thường. Các con bà như Thào Khay, Thào Mị đã trở thành cán bộ gương mẫu góp phần làm ra sự đổi thay trong cuộc sống cho quê hương Tây Bắc. Tuy nhiên, với Miền Tây, Tô Hoài đã có thêm những nét mới về văn nghệ trong cách triển khai cốt truyện, dựng cảnh, cách khai thác các cụ thể văn nghệ, và nhất là việc xây dựng thành công một số nhân vật mang tính điển hình tạo thành ở người đọc dấu ấn sâu bền như : Giàng Súa, Thào Khay, Vừ Sóa Tỏa. Đặc biệt, nhà văn có sự phối hợp hài hòa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn trong quá trình sáng tạo. Chính điều này đã góp phần làm ra vẻ đẹp rất chân thực mà cũng rất giàu chất thơ mộng lãng mạn cho Miền Tây.      

Sống trong cuộc sống mới, nhà văn Tô Hoài cũng “ôn chuyện cũ”, ngòi bút của ông hướng về xã hội trước Cách mạng tháng Tám từ cách nhìn, sự suy ngẫm sâu sắc hơn theo thời gian và những trải nghiệm trong cuộc sống. Ở tiểu thuyết Mười năm, với tầm nhận thức mới và từ chỗ đứng của cuộc sống hiện tại nhiều đổi thay mang ý nghĩa lớn trong đời sống dân tộc, Tô Hoài đã phản ảnh chân thực và sinh động hơn cảnh sống bi thảm, đói nghèo, cùng quẫn ở một vùng quê ven đô, nơi mà nhà văn đã nhìn thấy và trải qua cùng với bao số phận khác. Đồng thời, qua Mười năm, nhà văn cũng trổ tài được quá trình giác ngộ cách mạng của quần chúng cũng như sức mạnh của họ trong các trào lưu tranh đấu chống lại sự áp bức bóc lột của cơ chế thực dân phong kiến. Tiên phong trong trào lưu tranh đấu là lớp thanh niên như Lạp, Trung, Lê, Ba,… Họ tiếp thụ ánh sáng lí tưởng mới, và hăng hái nhiệt tình tham gia các hoạt động để mang lại sự đổi thay cho cuộc sống.

Ở Mười năm, còn một số cụ thể có thể gạt bỏ để tác phẩm có thể hoàn thiện hơn, nhưng điều cần nhận thấy, ở tác phẩm này Tô Hoài với tầm nhận thức mới đã phát huy được sự sắc sảo trong cách xem xét và bút pháp trổ tài.

Sau tiểu thuyết Mười năm, Tô Hoài còn viết nhiều tác phẩm khác về ngoại thành Hà Nội như : Quê người, Quê nhà, Những ngõ phố, người đường phố, và gần đây là Chuyện cũ Hà Nội (hai tập). Điều đó cho thấy vốn sống, nguồn tư liệu, cũng như nguồn cảm xúc sáng tác của Tô Hoài về Hà Nội vô cùng phong phú phong phú. Từ các tác phẩm viết về Hà Nội của ông, người đọc có điều kiện hiểu hơn về phong tục, nếp sinh hoạt, tên gọi phố phường, con người Hà Nội trải dài suốt cả thế kỉ XX trong cuộc sống đời thường và cả trong chiến tranh.

Xem Thêm :   Học tiếng Trung giao tiếp | Khẩu ngữ tiếng Trung bày tỏ thái độ | Tiếng Trung theo chủ đề

Xem Thêm :  Tiểu luận đường lối kháng chiến chống thực dân pháp

Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài còn đạt được thành tựu đặc sắc ở thể kí. Nhiều tác phẩm kí của ông xuất hiện sau những chuyến hành trình lên Tây Bắc như Nhật kí vùng cao, Lên Sùng Đô, hay đi thăm nước bạn như Tôi thăm Cămpuchia, Tp Lênin, Hoa hồng vàng song cửa,… Đặc biệt, Tô Hoài có các tập hồi kí gắn liền với bao nỗi vui buồn và mong ước của tuổi thơ, bao kỉ niệm về những bạn văn, đời văn của ông như Tự truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều. Từ các tập hồi kí này, người đọc có điều kiện để hiểu thêm về phong thái văn nghệ, thân phận, tư cách nhà văn trong hành trình văn chương của ông và một số nhà văn khác. Cách viết hồi kí của Tô Hoài rất linh hoạt biến hóa, các sự kiện được khai thác theo mạch liên tưởng và đan xen lẫn nhau nên luôn tạo được sức mê hoặc so với người đọc không thua kém gì so với thể loại khác.

Bên cạnh những mảng sáng tác trên, Tô Hoài còn tiếp tục viết khá nhiều tác phẩm cho thiếu nhi như : Con mèo lười, Vừ A Dính,Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử,… Ở mảng sáng tác này, ngay cả khi tuổi tác không còn trẻ Tô Hoài vẫn có được cách cảm nhận và trổ tài đời sống qua trang văn thích hợp với tâm hồn, nhận thức của tuổi thơ, để cùng các em đến với một toàn cầu biết bao điều kì thú. Trên nền tảng đó góp phần bồi đắp vẻ đẹp và sự trong sáng, cao thượng cho tâm hồn trẻ thơ.   

Tóm lại: Những sáng tác của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám đã nhất định được vị trí và tài năng văn nghệ của ông trước hiện thực của cuộc sống mới. Ông xứng đáng là một tấm gương trong sáng trong lao động văn nghệ để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.  

3 – Phong thái văn nghệ của Tô Hoài:  

3.1 – Không gian văn nghệ và đối tượng tìm tòi, trổ tài rất tập trung.

Tác phẩm của Tô Hoài viết đa số về hai địa bàn: vùng ngoại thành Hà Nội và miền núi Tây Bắc. Đối tượng được Tô Hoài khai thác nhiều nhất, thành công nhất trong tác phẩm của ông là cuộc sống của người lao động đói nghèo ở ngoại thành Hà Nội và miền núi Tây Bắc.

Tuy nhiên, Tô Hoài là một trong số ít nhà văn Việt Nam có sở trường viết truyện về loài vật. Toàn cầu loài vật phong phú, phong phú được nhân hóa xuất hiện trong tác phẩm của ông luôn có sức mê hoặc so với người đọc, giúp họ nhận thấy sự sinh tồn tự nhiên của xã hội loài vật đó.  

Có thể nói, những tác phẩm tiêu biểu nhất trên con đường văn chương của Tô Hoài cũng không nằm ngoài không gian văn nghệ và đối tượng tìm tòi, trổ tài nói trên.

3.2 – Lối viết đậm đà màu sắc dân tộc

Dấu hiệu phong thái văn nghệ này của Tô Hoài được dấu hiệu cụ thể ở các điểm sau:

– Cách đặt tên cho tác phẩm của Tô Hoài có khi được xuất phát từ thành ngữ dân gian: “ Đất khách, quê người”; “ Hoa đồng cỏ dại”; “ Giăng thề còn đó trơ trơ”.

– Cách kể chuyện, dẫn truyện của Tô Hoài có sức lôi cuốn, mê hoặc người đọc, dấu hiệu rõ ở tác phẩm Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Dế Mèn phiêu lưu kí .

– Tô Hoài thường đi vào tìm tòi và trổ tài truyền thống nhân nghĩa của con người Việt Nam như : trọng nghĩa khinh tài, khí tiết, thủy chung,…        

– Tô Hoài khai thác đề tài lịch sử  để ngợi ca phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam, tiêu biểu là tác phẩm Đảo hoang, Chuyện ông Gióng.

  3.3 – Cách xem xét thông minh hóm hỉnh và rất tinh tế.

Cách xem xét thông minh hóm hỉnh và rất tinh tế là khả năng nổi trội của Tô Hoài trong quá trình sáng tạo văn nghệ. Khả năng này của ông được dấu hiệu rõ ngay từ trước cách mạng qua những truyện viết về loài vật. Càng về sau càng được phát huy ở nhiều tác phẩm khác. Những trang văn của Tô Hoài khi mô tả cảnh sắc thiên nhiên, phong tục tập quán, lễ hội ở vùng ngoại thành Hà Nội và vùng núi Tây Bắc đều để lại cho người đọc ấn tượng sâu bền, cũng như luôn mang đến cho họ nguồn tư  liệu rất phong phú về lịch sử, địa lí và đời sống văn hóa trí não của dân tộc. Đặc biệt, khi mô tả ngoại hình và diễn biến tâm lí của nhân vật, Tô Hoài đã chọn lựa những cụ thể mới mẻ có sức gợi cảm nhằm thúc đẩy mãnh liệt đến tình cảm nhận thức của người đọc về thân phận của nhân vật. Nhà văn còn sử dụng yếu tố ngoại cảnh để góp phần làm nổi trội hơn nội tâm của nhân vật trong từng hoàn cảnh, tình huống cụ thể. Chính vì thế, các nhân vật trong tác phẩm của Tô Hoài thường mang nét riêng và gợi cho người đọc biết bao điều suy ngẫm.      

  3.4 – Đặc sắc trong cách sử dụng ngôn ngữ.

Ngôn ngữ trong tác phẩm của Tô Hoài là ngôn ngữ xuất phát từ đời sống quần chúng. Tô Hoài tư tưởng đó là kho của cải vô giá và ông đã biết cách chọn lựa, nâng cao và văn nghệ hóa trong các sáng tác của mình để tăng thêm giá trị của nó. Ông nhất định: “Mỗi chữ phải là một hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”…“Câu nói là bộ mặt của ý. Ý không bao giờ lặp lại, cũng như cuộc sống không bao giờ trở lại giống nhau như đúc thì lời văn cũng phải thế”(Sổ tay viết văn).

Với sự nhận thức trên, Tô Hoài đã luôn trau dồi học hỏi ngôn ngữ trong cuộc sống đời thường của nhân dân ở làng quê ngoại thành Hà Nội và cả ở miền núi Tây Bắc. Ở từng vùng đất, từng đối tượng, từng loại nhân vật, ông đều có cách sử dụng ngôn ngữ thích ứng với dấu hiệu của nó. Mặt khác, ông còn sử dụng thành công những từ ngữ giàu sức tạo hình, từ chỉ màu sắc, từ địa phương,… Điều đó tạo cho tác phẩm của ông vừa có vẻ đẹp giản dị, vừa không kém phần kì thú.  

4. Tổng kết chung

“Dao có mài mới sắc”, với sự cần mẫn, bền chắc, dẻo dai, không ngừng học hỏi, tích lũy, tự vượt mình để sáng tạo đó chính là điều làm ra bản lĩnh và tài năng văn nghệ của Tô Hoài. Với những thành tựu to lớn đã đạt được sau hơn nửa thế kỉ sáng tạo văn nghệ, Tô Hoài xứng đáng là một trong những cây viết tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, là tấm gương lao động văn nghệ cho văn nghệ sĩ noi theo.

Người đọc trước đó, hiện tại và mai sau có thể không thể quên được những đóng góp mới mẻ, đặc sắc của Tô Hoài so với  nền văn chương dân tộc.  

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Giáo Dục

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung

Related Articles

Back to top button