Kiến Thức Chung

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CÂY CAO SU

Ngày đăng: 16/04/2015, 09:01

Cây cao su (Hevea brasiliensis Muell. Arg.) là một trong 10 loài trong chi Hevea, họ Euphorbiaceae (họ Thầu Dầu). Trong 10 loài này, chỉ có Hevea brasiliensis là cho mủ cao su có ý nghĩa về kinh tế và được trồng rộng rãi nhất. Cây cao su có nguồn gốc ở vùng rừng thuộc lưu vực sông Amazon, Nam Mỹ, phân bố tự nhiên trên một vùng rộng lớn nằm giữa vĩ độ 15o Nam và 6o Bắc và từ 46o – 77o Tây, bao gồm các nước Brazil, Bolivia, Peru, Colombia, Ecuador, Venezuela, French Guiana, Surinam và Guyana (Webster và Paardekooper, 1989). Cây cao su được trồng thành công cho mục đích kinh doanh trên địa bàn rộng lớn ở Đông Nam Á có cùng vĩ tuyến và điều kiện khí hậu tương tự vùng nguyên quán. Sau đó diện tích cây cao su đã được mở rộng từ vĩ tuyến 23o Nam (Săo Paulo, Brazil) đến vĩ tuyến 29o Bắc (Ấn Độ và Trung Quốc) với cao trình từ thấp lên đến 1.100 m (Pushparajah, 1983; Ortolani và ctv, 1998; Priyadarshan và ctv, 2005). Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 Giới thiệu tổng quan về cây cao su 1.1.1 Nguồn gốc, phân loại Cây cao su (Hevea brasiliensis Muell. Arg.) là một trong 10 loài trong chi Hevea, họ Euphorbiaceae (họ Thầu Dầu). Trong 10 loài này, chỉ có Hevea brasiliensis là cho mủ cao su có ý nghĩa về kinh tế và được trồng rộng rãi nhất. Cây cao su có nguồn gốc ở vùng rừng thuộc lưu vực sông Amazon, Nam Mỹ, phân bố tự nhiên trên một vùng rộng lớn nằm giữa vĩ độ 15 o Nam và 6 o Bắc và từ 46 o – 77 o Tây, bao gồm các nước Brazil, Bolivia, Peru, Colombia, Ecuador, Venezuela, French Guiana, Surinam và Guyana (Webster và Paardekooper, 1989). Cây cao su được trồng thành công cho mục đích kinh doanh trên địa bàn rộng lớn ở Đông Nam Á có cùng vĩ tuyến và điều kiện khí hậu tương tự vùng nguyên quán. Sau đó diện tích cây cao su đã được mở rộng từ vĩ tuyến 23 o Nam (Săo Paulo, Brazil) đến vĩ tuyến 29 o Bắc (Ấn Độ và Trung Quốc) với cao trình từ thấp lên đến 1.100 m (Pushparajah, 1983; Ortolani và ctv, 1998; Priyadarshan và ctv, 2005). 1.1.2 Dấu hiệu sinh vật học 1.1.2.1 Dấu hiệu hình thái Cây cao su (Hevea brasiliensis Muell. Arg.) là loại cây thực vật lâu năm, có chu kỳ khai thác 25 – 30 năm. Trong điều kiện hoang dại cây có thể cao đến 50 m, vanh thân đạt 5 – 7 m. Tuy nhiên trong các đồn điền cây chỉ cao khoảng 25 – 30 m bởi sinh trưởng giảm do cạo mủ. Vỏ cây cao su có 3 lớp, lớp ngoài cùng là tầng mộc thiêm, kế đến là lớp trung bì có nhiều tế bào đá và một ít ống mủ, trong cùng là lớp nội bì kết cấu bởi tế bào libe và hệ thống ống mủ. Lá cao su là lá kép gồm có 3 lá chét với phiến lá nguyên mọc cách. Cây có thời kỳ rụng lá qua đông, lá rụng hoàn toàn sau đó ra bộ lá mới. 1 1 Hoa cao su nhỏ, hình chuông với năm lá đài màu vàng, đơn tính đồng chu, khó tự thụ do hoa đực và hoa cái không chín song song. Cây cao su ra hoa khi được 5 – 6 tuổi và khởi đầu ra hoa vào tháng 2 – 3 trong điều kiện Việt Nam. Quả cao su dạng quả nang gồm 3 – 4 ngăn, chứa 3 – 4 hạt, quả tự khai, hạt khá lớn, kích thước thay đổi từ 2 – 3,5 cm. Vỏ hạt cứng, đầu hạt có lỗ nảy mầm. Hạt có chứa nhiều dầu, dễ mất sức nảy mầm. Cây cao su rụng quả tháng 8 – 9 hàng năm. Bộ rễ của cây cao su rất phát triển, rễ cọc có thể dài đến 10 m khi trưởng thành và gặp đất có cấu trúc tốt, 80 – 85% rễ bàng tập trung đa số ở tầng đất mặt 0 – 30 cm (Nguyễn Thị Huệ, 2006). Mủ cao su là dung dịch thể keo, có màu trắng sữa hoặc hơi vàng tùy giống. 1.1.2.2 Các giai đoạn phát triển Trong điều kiện canh tác, chu kỳ sống của cây cao su được quy định từ 25 đến 30 năm, chia làm 2 thời kỳ chính: Thời kỳ kiến thiết cơ bản: từ khi trồng đến khi vườn cây mang vào cạo từ 5 – 8 năm tùy giống, môi trường và điều kiện chăm sóc. Hiện tại, với việc chăm sóc quản lý theo đúng quy trình, giống được nâng cấp nên thời gian kiến thiết cơ bản sẽ được rút ngắn còn khoảng 4 – 6 năm. Thời kỳ kinh doanh: Đây là khoảng thời gian khai thác mủ của cây kéo dài từ 20 – 25 năm, cây đươc khai thác khi trên vườn có trên 70% tổng số cây có vanh thân đo cách mặt đất 1 m đạt ≥ 50 cm, giai đoạn khai thác kéo dài từ 20 – 25 năm. Trong giai đoạn này cây vẫn tiếp tục tăng trưởng nhưng ở mức thấp hơn so với giai đoạn kiến thiết cơ bản và cho đến năm cạo thứ 5 – 6 trở đi cây mới ổn định và cho năng suất kéo dài trong 20 năm. Do dấu hiệu về chính sách khai thác, chia thành 3 nhóm cây: – Vườn cây nhóm I (vườn cây tơ): năm cạo thứ 1 đến thứ 10. – Vườn cây nhóm II (vườn cây trung niên): năm cạo thứ 11 đến 17. – Vườn cây nhóm III (vườn cây già, thanh lý): năm cạo thứ 18 đến 20. 2 2 1.1.3 Dấu hiệu sinh thái Vùng sinh thái tự nhiên của cây sao su thuộc khí hậu nhiệt đới ẩm, khá phong phú. Cây cao su thích hợp với vùng có lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 2.000 mm/năm, không có mùa khô hoặc mùa khô từ 1 đến 5 tháng, số ngày mưa thích hợp cho cây ca su là khoảng 100 – 150 ngày/năm và phân bố đều trong năm. Nhiệt độ thích hợp nhất là 25 – 30 o C. Cây trưởng thành có sức chịu hạn tốt, phát triển trong điều kiện tối thiểu 1.600 – 1.700 giờ nắng/năm và điều kiện gió nhẹ (1 – 3 m/s), nếu vận tốc gió to hơn 17 m/s thì cây sẽ bị gãy đổ. Cây cao su ưa đất hơi chua, độ pH khoảng 4,5 – 5,5 và không chịu ngập. Đất trồng cao su yêu cầu hóa tính đất không khó tính nhưng lí tính đòi hỏi phải có tầng đất mặt dày, không úng, địa hình ít dốc là tốt nhất (Nguyễn Thị Huệ, 2006). 1.1.4 Dấu hiệu di truyền Theo Ong (1979), cây cao su có bộ nhiễm sắc thể 2n = 36, cây cao su có thể là một dạng tứ bội với số lượng nhiễm sắc thể cơ bản n = 9. Các đặc tính như sinh trưởng, sản lượng, khả năng kháng bệnh đều do những tính trạng đa gen, di truyền theo phương phức cộng hợp và khả năng phối hợp chung trọng yếu hơn khả năng phối hợp riêng. Cho đến nay, chưa có chứng cứ về sự tự bất tương hợp ở cây cao su, mặc dù thường khi giao phấn chéo cho tỉ lệ đậu trái cao hơn tự thụ. Hiện tại, tìm hiểu dấu hiệu di truyền ở cây cao su qua thống kê sinh học (di truyền định lượng) khởi đầu muộn hơn các tìm hiểu khác, nhưng đã có những đóng góp làm nền tảng cho việc định hướng các chương trình nâng cấp giống cao su. 1.2 Các giai đoạn phát triển cao su thiên nhiên trên toàn cầu 1.2.1 Giai đoạn khai thác cao su hoang dại (1500 – 1870) Mủ cao su đã được sử dụng từ rất lâu đời, đặc biệt trong việc làm ra những vật dụng phục vụ các lễ cúng tôn giáo của thổ dân tại vùng nguyên quán Amazon (de Livonnière, 1993). Tại vùng rừng Amazon, mủ cao su được khai thác từ các cây cao su hoang dại mọc rải rác hay mọc tập trung từ 4-10 cây ở mỗi nơi và cách nhau ít nhất khoảng 400 m với mật độ trung bình là 1 cây cho 5 ha (Nguyễn Thị Huệ, 2006). Năm 3 3 1747, cây cao su lần trước nhất được mô tả cụ thể bởi một kỹ sư người Pháp, Fresneau. Khoảng năm 1830 nhà máy sơ chế mủ cao su trước nhất ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trọng yếu trong việc sử dụng sản phẩm mủ cao su vào việc chế tạo giày dép, ống nhựa, áo mưa và các sản phẩm khác (Thomas và Panikkar, 2000). 1.2.2 Giai đoạn di nhập và nhân trồng cây cao su (1870 – 1914) Từ đầu thập niên 1870, do nhu cầu cao su thiên nhiên tăng rất mạnh đã kéo theo sự thiết yếu phải phát triển cây cao su trên toàn cầu nhằm thay thế cho nguồn cung cao su từ rừng tự nhiên ở Nam Mỹ vốn không thể giải quyết được nhu cầu. Vì vậy, đã có nhiều nỗ lực để di nhập cây cao su sang trồng ở vùng nhiệt đới châu Á, nơi có các điều kiện môi trường tương tự như vùng nguyên quán Amazon. Tuy nhiên toàn bộ đều không thành công cho tới nỗ lực của nhà thực vật học người Anh Henry Wickham vào năm 1876 (Wycherley, 1968). Trong năm này, Wickham đã thu thập 70.000 hạt cao su ở thượng lưu sông Amazon và chuyển về vườn thực vật Kew (Anh); trong số này, chỉ khoảng 4% số hạt đã này mầm sau 3 tuần ươm. Từ nguồn sưu tập này, cây cao su đã được mang trước nhất vào Singapore năm 1876 và sau đó lan sang các nước khác ở châu Á cũng như các nước châu Phi tạo ra sự phát triển của nghề công nghiệp cao su thiên nhiên. Đây là nguồn gen khởi đầu cho sự thành công của các chương trình tạo tuyển giống cao su ở Đông Nam Á được gọi là nguồn gen Wickham (W). Cây cao su lần trước nhất được di nhập vào Việt Nam vào năm 1878 do Pierre mang hạt giống vào trồng ở vườn Bách thảo Sài Gòn nhưng không thành công. Đến năm 1876, cây cao su tiếp tục được Yersin di nhập vào Việt Nam từ Bogor (Indonesia) và được trồng trải nghiệm tại Bình Dương và Nha Trang, sau đó đã tạo dựng các đồn điền cao su trước nhất ở Đông Nam Bộ từ 1907 và ở Tây Nguyên từ 1923. Tại miền Bắc, trong giai đoạn 1958 – 1963, cây cao su đã được trồng ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ và Phú Thọ (Đặng Văn Vinh, 2000; Trần Thị Thúy Hoa, 2005). Từ 2007, cao su đã phát triển ra một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. 1.2.3 Giai đoạn phát triển mạnh mẽ nghề cao su (từ 1914 đến nay) 4 4 Hiện tại, có trên 24 quốc gia sản xuất cao su thiên nhiên với tổng diện tích cây cao su đến năm 2010 ước khoảng 11,5 triệu ha, phân bố đa số tại châu Á (92,7%), kế đến là châu Phi (5%) và châu Mỹ la-tinh (2,3%). 1.2.3.1 Giai đoạn 1914 – 2005 Trong giai đoạn này, mức sản xuất cao su thiên nhiên trên toàn cầu tăng trưởng rất nhanh, sản phẩm cao su phân phối trên thị trường đa số là trồng từ các vườn cây khai thác, sản lượng cao su toàn cầu đã tăng từ 125 nghìn tấn vào năm 1914 và đến năm 1941 tăng trưởng 1,504 triệu tấn. Tuy nhiên do chiến tranh toàn cầu lần II nên diện tích trồng cao su cũng như sản lượng mủ đã giảm xuống đáng kể và đến năm 1945 chỉ còn 254 ngàn tấn. Sau chiến tranh toàn cầu thứ II, sản lượng cao su thiên nhiên đã được phục hồi với sản lượng năm 1946 đạt 867 ngàn tấn và tăng trưởng 3,845 triệu tấn vào năm 1980. Sản lượng cao su thiên nhiên vẫn tăng trưởng điều độ ở các năm sau đó, từ 4,335 triệu tấn vào năm 1985 đã tăng trưởng 8,682 triệu tấn vào năm 2005. 1.2.3.2 Giai đoạn 2005 – 2011 Sản lượng và diện tích cây cao su đã tăng trưởng liên tục theo nhu cầu sử dụng cao su thiên nhiên trên toàn cầu. Năm 2009, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm thu hẹp nhu cầu, sản lượng cao su thiên nhiên trong năm này đã thấp hơn năm trước, tuy nhiên diện tích vẫn tiếp tục phát triển. Vận tốc tăng trưởng về diện tích khoảng 2,7% từ năm 2005-2010 và về sản lượng khoảng 2,4% hàng năm từ năm 2005 đến 2011. Trong năm 2011, Thái Lan đi đầu về sản lượng cao su thiên nhiên, đạt 3,39 triệu tấn, chiếm 30,9% tổng sản lượng cao su toàn cầu, tăng 4,4% so năm trước. Thứ hai là Indonesia, sản lượng đạt 2,98 triệu tấn, chiếm thị phần 27,1%, tăng trưởng mạnh (9%). Malaysia xếp thứ ba với sản lượng 996 ngàn tấn, chiếm thị phần 9,1% tăng khá với mức 6,1% so năm 2009. Ấn độ có sản lượng xếp thứ tư, đạt 889,9 ngàn tấn, chiếm 8,1% và tăng 4,6%. Việt Nam xếp thứ năm với sản lượng đạt 811,6 ngàn tấn, chiếm 7,4% và tăng trưởng sản lượng đạt khá 8% so với năm trước. Về năng suất, trong năm 2011, Việt Nam giữ vị trí thứ hai về năng suất trên toàn cầu với năng suất trung bình đạt 1.720 kg/ha, chỉ sau Ấn Độ (1.784 kg/ha), vượt hơn các nước sản xuất cao su lớn như Thái Lan (1.705 5 5 kg/ha), Malaysia (1.450 kg/ha) và Indonesia (937 kg/ha) (Bản tin Cao su Việt Nam số 53 ngày 31/01/2012). Nguồn: IRSG. Rubber Statistical Bulletin. Jan-Mar 2012 Đồ thị 1.1 Diện tích và sản lượng cao su toàn cầu từ 2005 – 2011 (nhà cung cấp 1000 tấn) 1.3 Tình hình sản xuất cao su ở Việt Nam Diện tích, sản lượng và năng suất cao su Việt Nam đã liên tục tăng qua các giai đoạn (Bảng 1.1), từ mức 76,6 – 87,7 ngàn héc-ta với sản lượng 40,2 – 41,1 ngàn tấn và năng suất trung bình khoảng 700 kg/ha ở giai đoạn 1976 – 1980 đã tăng trưởng 482,7 – 748,7 ngàn héc-ta với sản lượng 481,6 – 751,7 ngàn tấn và năng suất trung bình đạt 1.611 kg/ha trong giai đoạn 2005 – 2010, Bảng 1.1 Diện tích, sản lượng và năng suất cao su của Việt Nam Năm Diện tích (ha) Diện tích khai thác (ha) Sản lượng (tấn) 1976 76.600 – 40.200 1980 87.700 – 41.100 1985 180.200 – 47.900 6 6 1990 221.700 81.083 57.900 1995 278.400 146.885 124.700 2000 412.000 231.500 290.800 2005 482.700 334.200 481.600 2010 748.700 439.100 751.700 Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam (2011) Trong hơn một thập kỷ qua, mặc dù tình hình sản xuất cao su thiên nhiên ở Việt Nam có nhiều biến động nhưng diện tích và sản lượng cây cao su không ngừng tăng trưởng qua các năm (Bảng 1.2). Trong năm 2011, diện tích và sản lượng cao su đã tăng trưởng gấp đôi và năng suất tăng 37% so với năm 2000. Với mức sản lượng của năm 2011, sản xuất cao su ở Việt Nam hiện đứng thứ 5 trên toàn cầu (chiếm khoảng 7,4 % sản lượng cao su toàn cầu), chỉ sau Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ . Định hướng phát triển cao su đến 2015 là tiếp tục quy hoạch và mở rộng diện tích cả nước để đạt được 1 triệu ha. Đến năm 2020, việc đầu tư phát triển cây cao su đa số tập vào thâm canh tăng năng suất trên diện tích đã có, thay thế các giống cũ bằng những giống mới có tiềm năng năng suất cao trên diện tích trồng tái canh (IRSG, 2012). Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu cao su cũng có nhiều thuận tiện. Hiện tại, Việt Nam xuất khẩu cao su trên hơn 70 nước và vùng lãnh thổ trên toàn cầu với thị trường xuất khẩu lớn nhất là Trung Quốc, kế đến là thị trường Đài Loan, Malaysia, Đức, Mỹ, Nhật Bản. Bảng 1.2 Diện tích, sản lượng và năng suất cao su Việt Nam từ năm 2000 đến nay Năm Diện tích (ha) Diện tích khai thác (ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (tấn) 2000 412.000 231.500 290.800 1.256 2001 415.800 240.600 312.600 1.299 2002 428.800 243.300 298.200 1.226 2003 440.800 266.700 363.500 1.363 2004 454.100 300.800 419.000 1.393 2005 482.700 334.200 481.600 1.441 7 7 2006 522.200 356.400 555.400 1.558 2007 556.300 377.800 605.800 1.603 2008 631.500 399.100 660.000 1.654 2009 677.700 418.600 711.300 1.699 2010 748.700 439.100 751.700 1.712 2011 834.200 471.900 811.600 1.720 Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam (2011) 1.4 Các phương pháp lai tạo giống cao su 1.4.1 Chọn lọc cây đầu dòng Từ nguồn hạt do Wickham thu thập từ Brazil năm 1876 chuyển về trồng ở Singapore và lan sang Sri Lanka, Malaysia, Indonesia đã được xem là thủy tổ của hầu hết diện tích cao su ở Châu Á và Châu Phi hiện tại. Trong thời kỳ này cây cao su được trồng từ hạt thực sinh không chọn lọc, do đó sản lượng đạt được rất thấp, dưới 500 kg/ha. Cramer (1910) đã nhận thấy trong vườn cao su trồng từ các cây thực sinh có sự biến thiên rất lớn về sản lượng giữa các cá thể, qua phân tích sự biến thiên Cramer đã tổng kết rằng 70% sản lượng của vườn cây là từ khoảng 30% số cây trong vườn phân phối. Từ đó ông đã lời khuyên sử dụng hạt thực sinh từ những cây có năng suất cao (cây đầu dòng) để trồng. Kết quả thu được từ vườn trồng bằng hạt có chọn lọc đã mang năng suất trung bình lên 630 – 704 kg/ha/năm so với 496 kg/ha/năm ở các vườn trồng từ hạt thực sinh không chọn lọc (Dijkman, 1951). Năm 1917, Van Helten đã thành công trong phương pháp nhân giống vô tính cao su bằng kỹ thuật ghép mầm mủ trên gốc thực sinh, đã đặt nền tảng cho các phương pháp mới trong tạo tuyển giống cao su là tạo ra các dòng vô tính. 1.4.2 Phương pháp lai hữu tính nhân tạo (lai hoa) Tạo ra những giống cao su mới bằng phương pháp lai hữu tính nhân tạo (lai hoa) đã và đang được vận dụng thông dụng tại nhiều quốc gia trồng cao su trên toàn cầu như Malaysia từ năm 1928 (Gilbert và ctv, 1973; Othmen, 2007), Việt Nam năm 1933 (Ehret, 1948), Sri Lanka năm 1939 (?), Ấn độ năm 1954 (?), Trung Quốc trong những năm 1950 8 8 (Xinsheng, 2010). So với các nước châu Á, chương trình lai hữu tính nhân tạo tại châu Phi được thực hiện muộn hơn: tại Nigeria vào những năm 1960 (Omokhafe và Nasiru, 2005), Bờ Biển Ngà vào năm 1974 (Legnate, 1991). Phép tắc chính của phương pháp lai hữu tính nhân tạo là phối hợp các cha mẹ có đặc tính muốn (Trần Thị Thúy Hoa, 1998) hoặc cụ thể hơn là “lai giữa bố/mẹ tốt nhất với bố/mẹ tốt nhất” và tránh giao phối cận huyết thống (Lại Văn Lâm, 2011) để tạo ra các cá thể con lai (dạng thực sinh). Sau đó, quần thể con lai được mang vào nhận xét, chọn lọc ở các bước tiếp theo. Trong thực tiễn, việc lai hữu tính nhân tạo có thể được thực hiện trên cây trưởng thành hoặc trên các vườn lai hữu tính chuyên biệt cho cây cao su, các vườn lai này đã được tạo tán thấp và vận dụng kỹ thuật kích thích ra hoa sớm (Lại Văn Lâm và ctv, 2010). Ưu thế của phương pháp lai hữu tính nhân tạo là chủ động tạo ra con lai có tính trạng muốn, tỷ lệ đậu trái cao hơn, dễ dàng thi công trên vườn lai chuyên biệt (do được tạo tán thấp). Tuy nhiên, phương pháp này cũng đã bộc lộ một số hạn chế như tỷ lệ đậu trái thấp (trung bình khoảng 5%) và biến thiên lớn theo giống và điều kiện môi trường, thời điểm ra hoa không đồng bộ giữa các giống, thời gian ra hoa ngắn và hạt phấn cao su không thể tồn trữ lâu dài, tay nghề người thực hiện Các hạn chế này đã tác động đến số lượng cây lai thu được trong mỗi tổ hợp lai cũng như việc thiết kế các tổ hợp bố mẹ muốn. 1.4.3 Phương pháp lai tự do So với lai hữu tính nhân tạo, phương pháp lai tự do được thực hiện sớm hơn. Vườn hạt lai trước nhất được Van de Hoop xây dựng tại Java (Indonesia) vào năm 1920, từ vườn này đã phát hành nguồn hạt Tjikadoe (ký hiệu Tijr) nổi tiếng (Ho, 1979). Tại Malaysia, vườn lai cách ly Prang Besar Isolated Garden cũng đã được doanh nghiệp Prang Besar thiết lập vào năm 1928 và đã tạo ra nhiều quần thể đa giao PBIG được lời khuyên trồng ở điều kiện môi trường khó khăn. Tại Việt Nam, bên cạnh phương pháp lai hữu tính nhân tạo, việc thu thập cây lai tự do cũng rất được lưu ý nhằm khai thác nguồn gen tái tổ hợp phong phú từ quần thể đa 9 9 giao. Theo kết quả tìm hiểu gần đây nhất cho thấy: trong thời gian từ 2006 – 2010, đã có 9.497 con lai từ 126 tổ hợp lai, với mẹ là những giống sinh trưởng khỏe và sản lượng cao được thu thập. Sau thời điểm chọn lọc bước đầu về sinh trưởng, có 265 con lai xuất sắc đã được mang vào tuyển non cùng với 1.227 con lai được tạo ra bằng phương pháp lai hữu tính nhân tạo (Lại Văn Lâm và ctv, 2010). Một số DVT mới triển vọng ra đời từ phương pháp lai tự do gần đây như: LTD 98/298, LTD 98/119, LTD 98/630… đang trong giai đoạn sơ tuyển. 1.4.4 Chọn giống cha mẹ Công tác lai tạo giống thực vật luôn luôn được thực hiện trong một hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định (Simmod, 1985). Tuy nhiên, trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì việc chọn giống bố mẹ lúc nào cũng là giai đoạn trước nhất và trọng yếu nhất. Theo Phan Thanh Kiếm (2006), chọn giống bố mẹ có nhiều tính trạng tốt thì các gen trong các bố mẹ khác nhau có thời cơ tái tổ hợp để tạo thành những kiểu gen tốt. So với cây cao su, tạo những DVT sản lượng cao, phối hợp các đặc tính phụ muốn là mục tiêu chủ đạo của bất kỳ chương trình nâng cấp giống nào (Mercykutty và ctv, 2006). Sinh trưởng khỏe trong thời gian kiến thiết cơ bản là mục tiêu trọng yếu tiếp theo và hầu như không tách rời nhằm rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản, nâng cao hiệu quả kinh tế vườn cây. Một số tìm hiểu đã nhất định năng suất và sinh trưởng của cây cao su là tính trạng di truyền số lượng (Ligang và ctv, 2004), vì vậy tổ hợp lai giữa cha mẹ có năng suất cao sẽ làm tăng khả năng cho con lai có năng suất cao. Thật vậy, thực hiện ước lượng tính di truyền và ưu thế lai dựa trên cây thực sinh non và DVT sau 6 năm khai thác được tạo tuyển trong chương trình lai hữu tính nhân tạo từ năm 1982 đến 1993 của Viện Tìm hiểu Cao su Việt Nam, Trần Thị Thúy Hoa và ctv (1997) đã tổng kết: sản lượng, sinh trưởng và độ dày vỏ có tính di truyền cao, hệ số di truyền theo nghĩa rộng biến thiên từ 0,31 – 0,93 về sản lượng, 0,31 – 0,69 về sinh trưởng và 0,22 – 0,79 về độ dày vỏ; ưu thế lai cao nhất về sản lượng có thể vượt hơn cha mẹ tốt nhất 252,7%. 1.4.5 Các kiểu tổ hợp lai thường được thực hiện 10 10 […]… môi trường với sản lượng cao su khô trên DVT RRIM 600 Theo đó năng su t có tương quan thuận, có ý nghĩa thống kê với sản lượng cao su khô /cây, số cây/ phần cạo và độ dầy vỏ nguyên sinh; tương quan nghịch với các yếu tố dinh dưỡng trong lá như N, P, Mg, và Ca Dựa trên số liệu quan trắc của từng năm trong 3 năm của 18 DVT cao su trên vườn chung tuyển CTLK93 tại Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam (Lai Hưng,… hiện trên cây lai thực sinh hoặc trên dòng vô tính (cây ghép) Tại Việt Nam, tuyển non giống cao su được thực hiện trên cây lai đã được dòng vô tính hóa với kpi chọn lọc chính là năng su t mủ và sinh trưởng Cũng như ở các Viện Nghiên cứu Cao su trên toàn cầu, lưu đồ tạo tuyển giống cao su tại Việt Nam (hình 1.2) cho thấy sơ tuyển là bước chọn lọc giống trước nhất và bắt buộc ở giai đoạn cây trưởng… sản xuất cao su khác trong nước tham khảo, thực hiện 1.8 Một số kết quả tìm hiểu về tương quan giữa một số kpi nông học, đặc tính sinh lý mủ và năng su t mủ của cây cao su Vanh thân là một kpi trọng yếu dùng nhận xét khả năng sinh trưởng của một DVT cao su Vì vậy trong hầu hết các thực nghiệm nông học về cao su nói chung, so sánh giống nói riêng không thể thiếu kpi này Tùy từng giai… chọn giống cao su Tuyển chọn giống là một quy trình bắt buộc trong tìm hiểu giống thực vật nói chung và cây cao su nói riêng Ở cây cao su, phương pháp chung của quá trình tạo tuyển giống gồm các bước theo thứ tự như sau: chọn cha mẹ, lai tạo, chọn lọc cây thực sinh lai ưu tú, chọn lọc DVT xuất sắc, nhận xét khả năng thích ứng của DVT trong các điều kiện môi trường sinh thái khác nhau (Subramaniam,… là quốc gia có diện tích cao su đứng đầu toàn cầu, cũng là nơi tiên phong chương trình lai tạo giống cao su Tại Indonesia, việc sử dụng những DVT lai tiến bộ được lời khuyên là một yêu cầu bắt buộc để có vườn cây đạt năng su t cao Từ năm 1985, Indonesia đã thực hiện lai tạo các cha mẹ có chọn lọc tạo ra những DVT ưu tú với các dấu hiệu như sau: năng su t cao, năng su t cao su khô ở năm cạo trước nhất… cũng đã được lời khuyên trồng ở Bảng III trong cơ cấu bộ giống 2011 – 2015 1.7 Lời khuyên giống cao su cho sản xuất tại Việt Nam Do cây cao su là cây dài ngày, chu kỳ kinh tế cũng như thời gian chọn giống cao su rất dài để đủ độ tin cậy, vì vậy các quốc gia sản xuất cao su đều lời khuyên một bộ giống cao su gồm nhiều giống trong từng thời kỳ cho sản xuất, được phân tách ở các qui mô sản xuất khác nhau… 5 năm cạo mủ, tức khi cây ở năm tuổi thứ 9 đến 11 (Lại Văn Lâm, 2011) Vì đặc thù là cây lâu năm, việc tuyển chọn giống ở cao su phải mất từ 25 – 30 năm nếu thực hiện đầy đủ và tuần tự các bước Vì vậy, nhằm nhanh chóng thỏa mãn nhu cầu giống mới cho sản xuất, các Viện Nghiên cứu Cao su trên toàn cầu đã có những nghiên 12 12 cứu sáng tạo nhằm rút ngắn thời gian tuyển chọ giống cao su, và đã rút ngắn được… liệu về số vòng ống mủ và sản lượng trên các cây ghép 3 năm tuổi của 79 DVT cao su, Wycherley (1969) nhận định rằng: sản lượng mủ của cây cao su có tương quan thuận có ý nghĩa thống kê với số lượng vòng ống mủ ở vỏ cây Tuy nhiên, tác giả cũng nhất định rằng: sản lượng của từng cá thể trong cùng DVT và vanh thân của chúng trước khi mang vào cạo mủ có tương quan thuận rất chặt 17 17 Trong một tìm hiểu. .. năm tại Viện Nghiên cứu Cao su Ấn Độ (Varghese và ctv, 2006), 18 năm tại Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam (Trần Thị Thúy Hoa, 1998) Hình 1.2 Lưu đồ nâng cấp giống cao su cơ bản tại Việt Nam (đường liền: chính; đường đứt khúc: phụ) Nguồn: Lại Văn Lâm, 2011 1.6 Sử dụng và lời khuyên giống lai tạo trong nước tại một số quốc gia trên toàn cầu và tại Việt Nam Hầu hết các quốc gia sản xuất cao su hàng đầu… tích mối quan hệ giữa các kpi năng su t, sản lượng cá thể, vanh thân, số lượng cây cạo và hàm lượng cao su khô (DRC%), kết quả cho thấy: năng su t có tương quan rất chặt và có ý nghĩa với sản lượng cá thể; có tương quan tương đối chặt và tin cậy với số cây cạo; có quan hệ độc lập với vanh thân và chưa rõ so với hàm lượng DRC% Khi nhận xét quan hệ kiểu hình và kiểu gen của kpi năng su t, sản . phẩm. 1.5 Các bước tuyển chọn giống cao su Tuyển chọn giống là một quy trình bắt buộc trong tìm hiểu giống thực vật nói chung và cây cao su nói riêng. Ở cây cao su, phương pháp chung của quá trình. Viện Tìm hiểu Cao su trên toàn cầu đã có những nghiên 12 12 cứu sáng tạo nhằm rút ngắn thời gian tuyển chọ giống cao su, và đã rút ngắn được thời gian đáng kể như: còn 23 năm tại Viện Tìm hiểu. cáo giống cao su cho sản xuất tại Việt Nam Do cây cao su là cây dài ngày, chu kỳ kinh tế cũng như thời gian chọn giống cao su rất dài để đủ độ tin cậy, vì vậy các quốc gia sản xuất cao su đều khuyến

Xem Thêm :   Truyện Kiều (Nguyễn Du): Trọn bộ 3254 câu thơ Lục Bát

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Cây Xanh

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung
Xem Thêm :  Tổng hợp những cách kho cá trê ngon hấp dẫn (phần 2)

Related Articles

Back to top button