Kiến Thức Chung

Tìm hiểu về An Dương Vương và nước Âu Lạc

Ngày đăng: 07/04/2013, 20:37

Âu Lạc. Văn Lang – Âu lạc là một đất nước vĩ đại ! Vĩ đại khơng phải bằng niềm vinh quang qn sự, khơng phải bằng sự sung túc, trù phú của tài ngun thiên nhiên, bằng nền văn hóa lâu đời, mà chính bởi sức sống mãnh liệt nhất của mỗi người dân đất Việt. Nhà nước Âu lạc với tên tuổi Thục Phán – An Dương Vương đã đi vào lịch sử dân tộc như một điểm nhấn đánh dấu một bước ngoặt cơ bản trong tiến trình phát triển của thời kỳ dựng nước giữ nước. Mỗi tất cả chúng ta có quyền tự hào ngưỡng mộ những di sản tuyệt vời mà thời đại An Dương Vương mang lại, đó là q trình dựng nước, tranh đấu để giữ nước cùng những thắng lợi làm vang dậy núi sơng, nhất là trí não đồn kết, cố kết cộng đồng được tơi luyện, phát huy giữ vững từ cách đây gần 2700 năm. Bắt nguồn từ một niềm say mê với bộ mơn lịch sử, nhất là lịch sử cổ trung đại Việt Nam, chúng tơi đến với đề tài này như một cái dun đã định sẵn. Một sự gặp mặt tất yếu của những trằn trọc thời thơ bé. Đó là nỗi khao khát được tìm hiểu về q khứ xa xơi của dân tộc thời đại Hùng VươngAn Dương Vương. An Dương Vương – Thục Phán là tên gọi ln đặt ra trong chúng tơi một dấu hỏi lớn. Bởi trong truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, truyền thuyết Rùa vàng, chúng tơi mới chỉ thấy thấp thống bóng hình con người này. Trong tiềm thức chúng tơi lúc đó, An Dương Vương là ai còn chưa rõ, nước Âu Lạc ra sao cũng chưa hay. Tìm hiểu về An Dương Vương thời gian tồn tại nước Âu Lạc giúp chúng tơi hóa giải những chần chờ của cá nhân mình, đồng thời cũng là thời cơ để chỳng tơi hiểu sâu hơn về một thời kỳ lịch sử ít tư liệu. Mặt khác đề tài còn giúp chúng tơi có được những liên hệ phần nào trong cơng cuộc xây dựng xã hội THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 1 mới – con người mới ở Việt Nam hiện tại. Để u hơn tự hào hơn với những gì dân tộc mình đạt được cách đây hơn hai thiên niên kỷ. II. Mục đích tìm hiểu Đây là một đề tài chúng tơi lựa chọn để thực hiện nhằm hưởng ứng phong trào “tích cực tham gia nghiên cứu khoa học” của Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn. Trổ tài đề tài là những phấn đấu của chúng tơi để hồn thành tốt cơng việc này, vận dụng những hiểu biết, những tìm tòi học hỏi của mình về nguồn gốc An Dương Vương đất nước Âu Lạc để có được những tổng kết rõ hơn về vấn đề. Đề tài được nghiờn cứu sẽ tạo điều kiện nghiờn cứu đề tài theo một hướng tiếp cận mới, mở ra một con đường mới, để chúng tơi cùng những người đam mê nghiờn cứu thời kỳ lịch sử cổ trung đại nói riêng lịch sử Việt Nam nói chung có thể tiếp nhận tìm hiểu nhiều hơn về nó, trổ tài đề tài còn là một thời cơ để chúng tơi tập luyện khả năng nghiờn cứu khoa học cho bản thân, có thể tiếp cận thực hiện ở những đề tài to hơn. nghiờn cứu đề tài cũng là một cách học tập hữu hiệu để chúng tơi nghiờn cứu thêm, đọc hiểu thêm nhiều ý kiến, ý kiến nhận xét của các nhà nghiờn cứu, các vị tiền bối. Từ đó có thể mang ra thành kiến những kiến giải của bản thân, tập luyện đức tính cần mẫn, quyết đốn, sáng tạo- những đức tính phải có của một nhà nghiờn cứu lịch sử. III. Lịch sử vấn đề Mỗi một thời kì đi qua đều để lại đằng sau nó những dư âm khơng ngớt còn đeo đẳng trong kí ức con người. tương tự như thế kỉ X, thế kỉ II TCN được coi là thế kỉ bản lề với nhiều biến động lớn trong lịch sử, người Việt Nam đã chứng kiến những phút giây chuyển giao của thời đại mình đầy đau xót nhưng cũng đáng tự hào. Thật vậy trong lịch sử thượng cổ nước ta, giai đoạn Âu Lạc do Thục Phán- An dương vương mở màn là sự tiếp theo nhà nước văn lang đời các vua hùng. Nhưng thục phán là ai? cho đến nay khơng phải toàn bộ các vấn đề đều sáng tỏ. Bởi thế từ lâu nó đã trở thành một đề tài mê hoặc được nhiều người quan tâm tìm hiểu. THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 2 Đến nay có rất nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc an dương vương tập trung đa phần với 3 ý kiến chính sau: Thứ nhất, như tất cả chúng ta đã biết, tuy nói rằng lịch sử nước ta từ thời Âu Lạc trở đi đã có những sử liệu thành văn soi sáng nhưng số tư liệu đó cũng rất ít ỏi. Những ghi chép trước hết về thục phán an dương vương có thể tìm thấy trong thư tịch cổ của Trung Quốc. Sách Hậu hán thư, phần quận quốc chí của Phạm Việp khi chép về quận Giao Chỉ có chú thích “ đấy là nước cũ của An Dương Vương”. Tác phẩm Bùi thị Quảng châu kí ra đời vào khoảng thế kỉ V được dẫn lại trong sách ẩn của Tư Mã Trinh đời Đường thế kỉ VIII cũng chép: “ sau con vua Thục đem qn đánh chiếm tự xưng là An Dương Vương sai hai sứ cai trị hai xứ là Giao chỉ Cửu chân tức là Âu lạc vậy”. Theo Nam Việt chí được dẫn lại trong Cựu đường thư, phần địa lí chí viên biên soạn thế kỉ X “ thì vua nước thục cho con là An Dương Vương cai trị đất Giao chỉ nước ấy nay nằm về phía đơng huyện Bình Đạo”. như vậy các thư tịch cổ của Trung Quốc đều chép An Dương Vương là con vua Thục nhưng khơng cho biết cụ thể vua Thục là ai nước Thục ở đâu tuy sách vở Trung Quốc xưa viết nhiều, kĩ về nước Ba thục một nước đã thực sự tồn tại ở vùng Tứ Xun thời xn thu chiế quốc nhưng cũng khơng thấy cụ thể nào nói về mối quan hệ giữa Ba thục Văn lang. Sách Hoa dương quốc chí của Thường Cứ, người đời Tấn là bộ sách đã phân phối cho tất cả chúng ta những hiểu biết vế lịch sử địa lí về nước Ba thục cũng khơng thấy nhắc đến tên Thục phán việc Thục phán đánh được nước Văn lang, trong khi nó lại cho biết một cách chu đáo tình hình thay đổi chớnh trị trong từng quận huyện, sau thời điểm nước này bị diệt năm 316 TCN “ nước Thục xưng vương vào lúc nhà Chu suy vong. Vua đầu tiên là Tàm Tùng cũng như các vua sau chỉ lo dậy dân cày cấy làm ăn khơng có chinh chiến gì. Đó là bước đầu xây dựng vương triều, nên vua Thục chưa có thế lực để phát triển ra bên ngồi. Đến lúc “thất quốc” suy vong (476 TCN) vua Thục là Đỗ Vũ cũng xưng đế lấy hiệu là Vong đế đổi tên là Bồ ty “ tự cho cơng đức cao các vương khác….các sơng giang tiềm, miên, lạc làm thành trì, lấy núi Văn sơn làm nơi chăn ni, lấy Nam trung làm thượng uyển” đó lần trước hết Thục bành trướng. Theo địa danh các tên đất trên chủ THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 3 yếu nó hướng về phía bắc phía đơng. Đỗ Vũ nhường ngơi cho Khai Minh, con Khai Minh đánh Tần đến đất Ung “ đánh Thanh y, hùng cứ cả lão bặc….Thục vương phong cho em là Hà Manh giữ đất Hán Trung hiệu là Thư Hầu Thư Hầu kết thân với nước Ba, nước Ba lại thù với Thục. Thục vương giận đánh Thư hầu, Thư hầu chạy đến Ba cầu cứu Tần… Mùa thu năm Chu thuận vương thứ V quan qn của Tần là bọn đại phu Trương Nghi, Tư Mã Tháo đánh Thục, Thục vương kháng cự với Hà Manh, bị thua chạy đến Vũ Dương thì bị qn Tần giết tướng phó thái tử của vua Thục lui về Phùng Hương rồi chết ở núi Bạch Lộc đó là lần duy nhất Thục vương phát triển về hướng đơng nam nhưng chưa hề vượt khỏi nước Ba tức là chưa đến địa phận quận Tường Kha thời Hán sau này. Họ chưa vượt q thượng lưu sơng Trường giang ngày nay hướng phát triển chủ yếu là đơng bắc nên gặp phải qn Tần Sở. Những người dân Thục bị Đường Mơng đưa đi làm đường ở Dạ Lang có cả người Thục nhưng chưa xuống đến đất Nam Việt thì chiến tranh đã kết thúc, lúc đó khơng còn Thục Vương họ khai minh nữa. Nhiều sử gia các nhà nghiến cứu đã tốn khơng ít giấy mực để vun đắp cho ức thuyết này. Trong số những người nghiến cứu gần đây thì Trần Thu Hòa là người đã bỏ nhiều cơng để vun đắp cho lý thuyết này. Nhưng chính ơng cũng đã nhận thấy một khó khăn lớn trong vấn đề là tuổi của Thục Vương. Nước Thục bị Tần diệt vào năm 316 TCN. Nếu là con của Thục Vương tử tính đến năm 214 TCN trong kháng chiến chống Tần thì ít nhất ơng cũng đã trên trăm tuổi, vậy làm sao có thể lãnh đạo nhân dân đánh thắng qn Tần? Vì thế ơng đã giả thuyết về con di phúc. Tuy nhiên, đó chỉ là một giả thuyết hồn tồn vơ căn cứ khơng dựa trên một tài liệu cơ sở chữ viết nào, một truyền thuyết làm cơ sở cho giả định này. Các nguồn thư tịch cổ Việt Nam có thể nói xuất hiện muộn hơn các thư tịch của Trung Quốc nhưng lại có ghi chép rõ hơn về nguồn gốc của Thục Phán – An Dương Vương. Viện Sử lược Bộ sử biên niên thời Trần chép “cuối đời Chu, Hùng Vương bị con Vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay”. Tiếp theo đó trong Đại việt sử ký tồn thư các sử gia đã có một kỷ riêng “kỷ nhà Thục” để THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 4 chép về Thục Phán nước Âu Lạc, đoạn viết khẳng định: “Nhà Thục, An Dương Vương ở ngơi 55. Họ Thục tên Phán là người đất Ba Thục, đóng đơ ở Phong Khê” 3 . Sách “Đại Việt sử ký” thời Tây Sơn cũng chép gần giống thế: “An Dương Vương húy Phán, người Ba Thục ở ngơi 50 năm sử cũ cho là khơng phải”. Thuyết “Thục Phán gốc người Ba Thục” chiếm địa vị độc tơn trong những tác phẩm sử học thời Lê sơ cho đến đầu thời Nguyễn. Trong “Lịch chiều Hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú viết “An Dương Vương tên là Phán người Ba Thục” 5 , đến cối triều Nguyễn trong khi biên soan Việt sử thơng giám cương mục, một số sự kiện trong lịch sử thượng cổ nước nhà đã được xem xét phê phán lại, trong đó có thuyết Thục Phán người ba Thục. Thuyết này đã bị bác bỏ. Trong “Việt sử thơng giám cương mục” viết “Nước Thục đã bị qn Tần diệt từ năm thứ 5 đời Thuận Tĩnh Vương, nhà Chu (316 TCN) lúc đó làm gì có vua Thục nào? huống chi giữa đất Văn Lang với đất Thục còn có các thứ kiện – vi, dạ – lang, cùng, tạc, nhiễm, bàng cách xa nhau hai ba ngàn dặm. Nước Thục ở xa, làm thế nào băng qua các nước ấy mà đến lấy được Văn Lang? Sử cũ đã chép: cháu vua Thục tên là Phán lại bảo An Dương Vương họ Thục tên Phán người ba Thục hoặc giả ở ngồi cõi Tây Bắc, giáp liền với nước Văn Lang có người họ Thục, bèn cho là Thục Vương cũng chưa biết chừng. Nếu bảoThục Vương là người ba Thục là khơng phải” 6 . Trong việc sử lược, cuốn sử lược được thông dụng rộng rãi thời Pháp thuộc của Trần Trọng Kim khi bàn đến gốc tích nhà Thục cũng nhất định “Nhà Thục chép trong sử nước ta khơng phải nhà Thục bên Tàu. Năm 1957, Trần Văn Giáp đã đề cập đến vấn đề này trong bài “Một vài ý kiến về An Dương Vương ngọc giả vấn đề Thục – An Dương Vương” ơng đã dẫn sách vở Trung Quốc để mang ra tổng kết sau: “Khoảng trước thế kỷ 13 TCN vua Thục ở Ba Thục” sai cháu là Phán đánh xuống miền Nam tức vùng Giao Chỉ đời Hán tượng Quận đời Tần. Trong thời gian đó thì nước Thục đã bị Trương Nghi Tư mã Thố nhà Tân đánh, chiếm lấy cả nước Thục. Trong khi Phán mang 3 vạn qn ở miền Nam thì nước Thục bị mất vua bị giết chết. Đám 3 vạn qn ở miền Nam đó trở về đâu? Phán tất phải đánh Tượng Quận, THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 5 chiếm lấy một khu căn cứ địa nào đó, làm chỗ đứng chân rồi dần da thiết lập thành nước gọi là Âu Lạc, xưng là An Dương Vương”. Đọc đoạn viết này chúng ta chỉ thấy một điều là sau thời điểm nước Thục bị Tần diệt người ta có nhắc đến người Thục, nước Thục cũ mà thơi. Chứ khơng minh chứng gì thêm cho ý kiến Thục – An Dương Vương là người từ Ba Thục xuống. Bởi khu căn cứ địa nào đó làm chỗ đứng chân là khu căn cứ nào. Tác giả chưa nói rõ, vả lại theo cách lý giải của ơng thì Thục Phán là cháu Thục vương tử. Được sai dẫn qn đánh miền Nam, vậy là ít nhất tại thời điểm đó Phán phải là một tướng tài hoặc có uy tín. Việc này diễn ra trước khi nước Ba Thục bị diệt tức là trước 316 TCN. Vậy cần giải thích như vậy nào về cuộc kháng chiến chống Tần Triệu Đà của Âu Lạc trong khi người lãnh đạo lãnh đạo họ cũng là Thục Phán người cách đây khoảng 100 năm đã “đánh Tượng Quận chiếm lấy một khu căn cứ nào đó làm chỗ đứng chân rồi dần dà lập thành một nước gọi là Âu Lạc”. Dựa trên nền tảng đó, tất cả chúng ta có thể bác bỏ ý kiến An Dương Vương là người Ba Thục. Quan điểm thứ hai, cũng là một quan điểm nghiến cứu đáng quan tâm “An Dương Vương là người từ Ai Lao di đến”. Trước tiên về vị trí nước Thục, Hùng Vương – Ngọc phả cho biết “vua thục phụ đạo xứ Ai Lao cũng là dòng giõi vua Hùng, được tên Hùng Tấn vương muốn nhường ngơi cho con rể là Sơn Tinh (Tản Viên sơn thánh) lên triêu tập binh mã sang đánh”. Thần tích đền Mủi xã Thanh Un, huyện Tam Nơng, Vĩnh Phúc kể: “Đời Hùng Vương thứ 18 có giặc Ai Lao sang đánh nước ta. Chúng chia qn làm 5 đạo… vua mời Tản Viên sơn thánh đi đánh”. Sự tích Thiên Thai đại vương một vị tướng của Tản Viên có đoạn viết “đời Hùng Vương thứ 18… có qn Thục đến đánh giặc cùng Tản Viên sơn thánh chia thành hai đạo qn đánh tan giặc”. Thần tích về Cao Sơn, Q Minh hai bộ tướng của Tản Viên được thờ ở xã Cảnh Mỹ cũng chép chuyện hai ơng đi đánh giặc Thục tức giặc Ai Lao ở Tây Bắc. Sách “Sơn Tây thần tích An sơn huyện, Lạp Tuyết sơn xã, thơng đạt thần tích” chép về chuyện Nam Hải đại cương cũng THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 6 có đoạn viêt: “… Lúc đó bộ chủ Ai Lao là Thục Phán đem qn sang đánh bị Tản Viên sơn thánh đánh cho thua”… Chuyện cơng thần nhị vị đại vương phả lục, trong sách thần tích các xã thuộc huyện Sơn vi tỉnh Phú Thọ cũng nói: “thời bấy giờ Hùng Duệ Vương gả cơng chúa Mỵ Nương cho Tản viên sơn thánh tên là Nguyễn Tùng Thi, Thục phán chúa Ai Lao đem 10 vạn binh 8 nghìn ngựa sang đánh, Duệ vương hỏi kế Sơn thánh nói: Nên cử anh em Cao Hưng đem binh tuần tiễu các nơi… đến xã Bản ngun đóng đồn… sau cùng với Sơn thánh đánh giặc tồn thắng trở về Thục âp”. Về vị trí các trận đánh, truyền thuyết địa phương nào cũng nói là qn Thục cũng đi qua vùng ấy, nếu căn cứ vào đó thì thấy trận chiến tranh xảy ra ở một vùng rộng lớn, phía Đơng tới Sóc Sơn, bắc tới Hà Giang, Lai Châu, phía Tây tới Hòa Bình, phía Nam tới Ninh Bình. Trong khu vực được chỉ định một cách chung chung ấy thì tuyệt đại đa số truyền thuyết địa phương thần phả ở Vĩnh Phúc Hà Tây lại tập trung chỉ rõ hướng giặc Ai Lao tấn cơng từ phía Bắc Tây Bắc trên lưu vực sơng Hồng sơng Mã. Có thể kể như thần tích đền gò Chám xã Dị Nậu, huyện Tam Nơng, Vĩnh Phúc ghi rằng: “Thời Duệ Vương qn Thục sang đánh nước ta. Cao sơn Đại vương giúp Tản Viên sơn thánh tới thẳng trận tiền ở Mộc Châu là nơi đóng qn chính của giặc”. Căn cứ vào việc thờ thần Tản Viên phân bố rộng rãi trong tồn bộ vùng cư trú của người Việt một phần người Mường thì thấy trận chiến tranh chống Thục thúc đẩy đến tồn bộ vùng trung du đồng bằng Bắc bộ. Hiện tại vùng tập trung đa phần của những trận đánh lớn thì đều ở phía Tây Tây bắc đồng bằng Bắc bộ. Tham khảo nhiều truyền thuyết thì dường như giả thuyết về nước Thục có liên quan tới nước Ai Lao (Lào) nước láng giềng phía Tây của nước ta thời nay. Nhưng tiếc thay những tài liệu lịch sử thành văn chỉ mới cho phép tất cả chúng ta soi sáng lịch sử nước Lào từ khoảng giữa thế kỷ 14 trở lại đây. Như vậy tương ứng với giai đoạn lịch sử cuối đời Hùng Vương trong lịch sử nước Lào chưa hề thấy THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 7 một tổ chức quốc gia hay một nhóm bộ lạc có tên là Ai Lao cả. Mặt khác qua nhiều cuộc thăm dò trên thung lũng sơng Hồng các nhà nghiến cứu thấy xuất hiện chữ Lao trong tên đất tên sơng: chân lao ở bờ đầm Chính Cơng, ngòi lao ở Hạ Hà, ngòi kiên lao ở ngàng Lan Đình… Chữa A dùng riêng hoặc phối hợp với một số chữ khác đứng trước hoặc xếp sau như núi A (274m ở sát ngã ba Nhân Mục). Như Sơn A ở sát đơng bắc cánh đồng Nội… như vậy các nhà nghiến cứu phỏng đốn rất có thể ở khu vực thung lũng sơng Hồng có thể có thên Việt cổ là A Lao mà sau này đọc nhầm, viết nhâm thành Ai Lao. Thường cứ cũng khi “đất Thục đơng giáp ba, nam tiếp với Việt, bắc tiếp Tần”. ở đây tác giả cho Thục giáp Việt. Sau này khi nhà Tây Han đặt ra hai châu ích Dao thì địa bàn hai châu tiếp giáp nhau nhưng cũng khơng có đường ranh giới cụ thể .Dần dà về sau châu Giao thu hẹp với địa phận là khu vực miền Bắc nước ta. Trái lại châu ích được mở rộng gồm cả khu vực tỉnh Vân Nam, Q Châu, Tứ Xun ngày nay đến đời tam quốc .cũng có khi tac giả dùng lối định vị xưa ma cho bất cư mơt vị trí nào từ quảng tây đến Tứ Xun đều có thể là Thục. Thủy kinh chú dẫn Giao Châu ngoại vực ký có ghi là Thục vương tử nước Âu Lạc người sau dịch Thục vương tử là con vua Thục. Nhưng ta cũng có thể hiểu theo cách khác. Thủy tinh chú cũng ghi: “Thanh y vương tử hâm mộ chế độ nhà Hán bèn xin nội thuộc”. Đây là vua Thanh y quyết định việc hàng Hán chứ khơng phải con của vua Thanh y. Vì vậy vì vậy cũng có tài liệu ghi là: “Thục vương đánh Hùng Vương”. Trong một nội dung tác giả Nguyễn Huy Hinh từng nhận xét “Giữa Giao Châu ích Châu chỉ hạn chế đến điển, khơng vượt qua khỏi điền đến Ai Lao di bao giờ, Ai Lao di cũng chưa từng trở thành một nước hùng mạnh có xu thế phát triển về phía Giao Châu bao giờ. Ngay nước Điền ở bên cạnh cũng chưa từng có hành động gì vào phía Giao Châu dù Điền rất phát triển. Những thần tích ghi việc Thục Phán cai trị ở Ai Lao là những tài liệu do người sau này viết. Từ Ai Lao ở đây phải chăng là Ai Lao di hay là Lào ngày nay. THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 8 Quan điểm thứ ba cho rằng An Dương Vương là người Lạc Việt theo sự gợi ý của sử ký. Tây Âunước ở trần. Các sử gia thời bấy giờ khi phân biệt các nhóm tộc thường chú ý đến trang phục của các dân tộc. Mà Tư Mã Thiên cũng như các sử gia đời sau đã mơ tả, chúng ta khơng thấy nói đến nhóm người ở trần nào khác. Người Thục, người Điền đều khơng ở trần, nhiều tượng người thổi kèn được tìm thấy trong quan tải mộ Việt Khê. Những tượng đồng trên thạp đồng Đào Thịnh v.v… đều đóng khố, đó là một hình thức ở trần. Đây là một dấu hiệu phân biệt người Âu Lạc với người Nam Việt, người Thục họ đi đến khẳng định An Dương Vương là người Lạc Việt. Sáng đến những năm đầu thế kỷ 20 nhiều người tỏ ý nghi ngờ vua Thục thành Cổ Loa tiêu biểu như Ngơ Tất Tố với bài: “Nước Nam khơng có ơng An Dương Vương nhà Thục” hay một số nhà khảo cổ như ơng Trương, ơng Đỗ cũng nghi ngại thành Cổ Loa hay một phòng ban của nó là thành nhà Hán… nhiều học giả còn phủ nhận sự thật về An Dương Vương cho rằng đó chỉ là nhân vật trong truyền thuyết. Học giả Pháp Maspéro cũng cho An Dương Vương “ là một nhân vật chưa chắc chắn đã có trong lịch sử, là một ơng vua huyền thoại vì sử cũ chỉ chép theo truyền thuyết mà thơi”. Tuy nhiên toàn bộ những ý kiến trên còn chứa đựng trong nó q nhiều tranh chấp nhiều điều chưa hợp lý. Vài cách giải thích mang tính chất giả định cao chưa có những tài liệu hay bằng cớ nào cụ thể. Bởi vậy, hiện tại các nhà nghiến cứu vẫn đang trên con đường kiếm tìm sự thật về nguồn gốc Thục Phán – An Dương Vương. Một vấn đề còn gây nhiêu tranh cãi giữa các nhà sử học nghiến cứu về thời kì An Dương Vương đó là thời gian tồn tại nước Âu Lạc. Đây là vấn đề cũng được nhiều người quan tâm tìm hiểu. Họ đã mang ra nhiều ý kiến khác nhau với những kiến giải riêng. Trong số đó nổi bất nhất là ba ý kiến sau: Âu Lạc ra đời năm 257 TCN, kết thúc năm 208 TCN tồn tại trong khoảng 50 năm. Âu Lạc ra đời trong khoảng 210 TCN, kết thúc năm 207 TCN, tồn tại trong khoảng 4-5 năm. THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 9 Âu Lạc ra đời năm 208 TCN kết thúc 179 TCN tồn tại trong khoảng 30 năm. THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN […]… Phán – An Dương Vương là ngư i có q qn g c tích Cao 19 THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN B ng Dân gian có nh t n Cao L m t v tư ng tài năng thân tín vào b c nh t, m t ngư i anh em k t nghĩa c a An Dương Vương – cũng có q B ng Nhi u v tư ng c a An Dương Vương ho t ng Cao C Loa khu v c xung quanh cũng ư c dân gian gi i thích là ngư i mi n núi phía B c như N i H u – m t b tư ng gi i c a An Dương Vương. .. o sát m t s di tích truy n thuy t có liên quan n huy n Hòa An th y rõ s trùng khít th ng nh t gi a di tích truy n thuy t c bi t là các câu chuy n v Th c 16 THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN Phán – ăn sâu ký c c a nhân dân t lâu i Truy n An Dương Vương xây thành C Loa nhi u l n mà v n b sau ph i nh Rùa vàng giúp cách xây thành m i xong, Rùa vàng còn giúp vua di… Ph m vi phương pháp nghi n c u V C u trúc tài Ph n 2: N i dung: I Ngu n g c Tày c c a t c ngư i Tày c 2 Văn hóa Tày Thái văn hóa Vi t c 3 An Dương Vương – ngu n g c Tày c II Th i gian t n t i nư c Âu L c 1 Th i gian ra i 2 Th i gian k t thúc 10 THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN PH N II N I DUNG I NGU N G C TÀY C C A TH C PHÁN – AN DƯƠNG VƯƠNG 1 M t vài nét… Hùng Vương, xưng là Âu L c B i v y Âu L c ch là s ti p n i c a Văn Lang Nó ra i ư c bao b c trong hào quang chi n th ng Vì th khơng th coi vi c Hùng Vương b Th c Phán thay th , Âu L c thay th Văn Lang là cu c u tranh thơn tính hay là cu c xâm lư c c a k ngo i t c Cách lý gi i này hồn tồn phù h p v i ngu n g c Tày c c a Âu L c… Hương Canh (Vĩnh Phúc) nhưng t ba il i Tun Quang Ni m Hưng, Ni m H i, hai tư ng c a Hùng Vương ư c th làng L Khê (Liên Hà – Cao B ng chung s ng ây ư c m t ơng Anh – Hà N i) cũng t i Nhi u ngu n tư li u dân gian còn cho th y lòng kính u, tơn sùng sâu s c c a nhân dân i v i Th c Phán – An Dương Vương Vi c th cúng An Dương Vương ã tr thành m t truy n th ng văn hóa tín ngư ng l n C Loa, l t An Dương Vương. .. xâm nh p c a Qn T n vào t L c Vi t – Song truy n thuy t nói r ng T n Th y Hồng mu n t n cơng An Dương Vương nên An Dương Vương ph i hi n Lý Ơng Tr ng (Lý Thân) xin hòa, nhưng có ph i An Dương Vương th y khơng ch ng n i qn T n mà ph i xin hàng hay khơng? Theo s ký thì nhà T n “Sai giám sát làL c ào C h lương vào sâu t Vi t Ngư i Vi t tr n (Qn T n) trì c u lâu ngày lương th c b tuy t thi u Ngư i Vi… s m chính An Dương Vương ã em kinh nghi m ó xu ng vùng thành C Loa c kính nhưng 18 n, Tó, N … ư c ng b ng Cu i cùng m t ã ư c xây d ng nh s chung s c ng Tây Âu – L c Vi t ây là m t minh ch ng cho m i liên h m t thi t gi a vùng C Loa vùng Núi phía B c, gi a ngu n g c các v tư ng c a An Dương Vương Trong tâm th c dân gian vùng C Loa,… hóa Vi t Nam” Có l nh: “Như v y có t c a ti ng Vi t, t c u vào s hình thành bư c u phát tri n c a ây là m t lý do gi i thích t i sao An Dương Vương – Th c Phán lên ngơi tr vì thì c hai t c ngư i Tày Thái Vi t Mư ng ã ng h ơng 3 An Dương Vương là ngư i Tày c S dĩ chúng tơi có th nói r ng An Dương Vương là ngư i Tày c ” là b i chúng tơi d a vào nh ng nguyên nhân s trình bày sau ây: a T truy n thuy t thư… ng tr ngo i t c, căn c vào nh ng phát hi n kh o c h c khơng th y m t văn hóa v t ch t riêng bi t c a th i kỳ An Dương Vương V m t t ch c dân t c cũng v y, nhân dân ta bao Th c, vua chúa c a các tri u i nay i u trân tr ng kính th c vua Hùng vua u gia phong m t coi c Hùng vương Th c vương là nh ng v “H qu c tý dân” V l i gi s An Dương Vương là k ngo i bang xâm lư c di t Văn Lang thì qu th c chúng… vi phương pháp nghiên c u 10 1 Ph m vi nghiên c u 10 2 Phương pháp nghiên c u 10 V C u trúc tài 10 PH N II N I DUNG 11 I NGU N G C TÀY C C A TH C PHÁN – AN DƯƠNG VƯƠNG 1 M t vài nét v Cao B ng t c ngư i Tày c 11 2 S g n gũi c a văn hóa Tây – Thái văn hóa Vi t c 12 3 An Dương Vương là ngư i Tày c 14 II TH I GIAN RA 1 Th i gian . Vương là ai còn chưa rõ, nước Âu Lạc ra sao cũng chưa hay. Tìm hiểu về An Dương Vương và thời gian tồn tại nước Âu Lạc giúp chúng tơi hóa. sử học nghiến cứu về thời kì An Dương Vương đó là thời gian tồn tại nước Âu Lạc. Đây là vấn đề cũng được nhiều người quan tâm và tìm hiểu. Họ đã mang ra

Xem Thêm :   50 bức tranh tô màu gia đình đẹp nhất dành cho bé

Xem Thêm :  Những cuốn sách hay về phương pháp học tập nên đọc

Tìm hiểu về An Dương Vương và nước Âu Lạc 0 PHẦN MỞ ĐẦU I. Nguyên nhân chọn đề tài Nhà tư tưởng nga Heeden đã từng nói “trang sử cuối cùng là hiện thực ngày nay của chúng ta”. Vâng! hiện thực ngày nay là trang sử cuối cùng. Nhưng để trang sử “cuối cùng” ấy được mở ra một cách đầy ý nghĩa, tất cả chúng ta khơng thể bỏ qua những trang sử trước hết. Đó chính là q khứ xa xưa, là thời kì của quốc gia Văn Lang -Lạc. Văn Lang -là một đấtvĩ đại ! Vĩ đại khơng phải bằng niềm vinh quang qn sự, khơng phải bằng sự sung túc, trù phú của tài ngun thiên nhiên, bằng nền văn hóa lâu đời, mà chính bởi sức sống mãnh liệt nhất của mỗi người dân đất Việt. Nhàvới tên tuổi Thục Phán -đã đi vào lịch sử dân tộc như một điểm nhấn đánh dấu một bước ngoặt cơ bản trong tiến trình phát triển của thời kỳ dựnggiữ nước. Mỗi tất cả chúng ta có quyền tự hàongưỡng mộ những di sản tuyệt vời mà thời đạiđem lại, đó là q trình dựng nước, tranh đấu để giữcùng những thắng lợi làm vang dậy núi sơng, nhất là trí não đồn kết, cố kết cộng đồng được tơi luyện, phát huygiữ vững từ cách đây gần 2700 năm. Bắt nguồn từ một niềm say mê với bộ mơn lịch sử, nhất là lịch sử cổ trung đại Việt Nam, chúng tơi đến với đề tài này như một cái dun đã định sẵn. Một sự gặp mặt tất yếu của những trằn trọc thời thơ bé. Đó là nỗi khao khát đượcq khứ xa xơi của dân tộc thời kì HùngVương.- Thục Phán là tên gọi ln đặt ra trong chúng tơi một dấu hỏi lớn. Bởi trong truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, truyền thuyết Rùa vàng, chúng tơi mới chỉ thấy thấp thống bóng hình con người này. Trong tiềm thức chúng tơi lúc đó,là ai còn chưa rõ,ra sao cũng chưa hay.thời gian tồn tạigiúp chúng tơi hóa giải những chần chờ của cá nhân mình, đồng thời cũng là thời cơ để chỳng tơisâu hơnmột thời kỳ lịch sử ít tư liệu. Mặt khác đề tài còn giúp chúng tơi có được những liên hệ phần nào trong cơng cuộc xây dựng xã hội THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 1 mới – con người mới ở Việt Nam hiện tại. Để u hơntự hào hơn với những gì dân tộc mình đạt được cách đây hơn hai thiên niên kỷ. II. Mục đích tìm hiểu Đây là một đề tài chúng tơi lựa chọn để thực hiện nhằm hưởng ứng trào lưu “tích cực tham gia nghiên cứu khoa học” của Trường Đại học Khoa học Xã hộiNhân văn. Trổ tài đề tài là những phấn đấu của chúng tơi để hồn thành tốt cơng việc này, vận dụng nhữngbiết, nhữngtòi học hỏi của mìnhnguồn gốcđấtđể có được những tổng kết rõ hơnvấn đề. Đề tài được nghiờn cứu sẽ tạo điều kiện nghiờn cứu đề tài theo một hướng tiếp cận mới, mở ra một conmới, để chúng tơi cùng những người thích thú nghiờn cứu thời kỳ lịch sử cổ trung đại nói riênglịch sử Việt Nam nói chung có thể tiếp nhậnkhám phá nhiều hơnnó, trổ tài đề tài còn là một thời cơ để chúng tơi tập luyện khả năng nghiờn cứu khoa học cho bản thân, có thể tiếp cậnthực hiện ở những đề tài to hơn. nghiờn cứu đề tài cũng là một cách học tập hữuđể chúng tơi nghiờn cứu thêm, đọcthêm nhiều ý kiến, ý kiến nhận xét của các nhà nghiờn cứu, các vị tiền bối. Từ đó có thể mang ra định kiếnnhững kiến giải của bản thân, tập luyện đức tính cần mẫn, quyết đốn, sáng tạo- những đức tính phải có của một nhà nghiờn cứu lịch sử. III. Lịch sử vấn đề Mỗi một thời kì đi qua đều để lại đằng sau nó những dư âm khơng ngớt còn đeo đẳng trong kí ức con người. tương tự như thế kỉ X, thế kỉ II TCN được coi là thế kỉ bản lề với nhiều biến động lớn trong lịch sử, người Việt Nam đã nhìn thấy những phút giây chuyển nhượng của thời kì mình đầy đau xót nhưng cũng đáng tự hào. Thật vậy trong lịch sử cổ đạita, giai đoạndo Thục Phán-mở đầu là sự tiếp theo nhàvăn lang đời các vua hùng. Nhưng thục phán là ai? cho đến nay khơng phải toàn bộ các vấn đề đều sáng tỏ. Bởi thế từ lâu nó đã trở thành một đề tài mê hoặc được nhiều người quan tâm tìm hiểu. THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 2 Đến nay có rất nhiều ý kiến khác nhaunguồn gốctập trung đa phần với 3 ý kiến chính sau: Thứ nhất, như tất cả chúng ta đã biết, tuy nói rằng lịch sửta từ thờitrở đi đã có những sử liệu thành văn soi sáng nhưng số tư liệu đó cũng rất ít ỏi. Những ghi chép đầu tiênthục pháncó thểthấy trong thư tịch cổ của Trung Quốc. Sách Hậu hán thư, phần quận quốc chí của Phạm Việp khi chépquận Giao Chỉ có chú thích “ đấy làcũ củaVương”. Tác phẩm Bùi thị Quảng châu kí ra đời vào khoảng thế kỉ V được dẫn lại trong sáchcủa Tư Mã Trinh đờithế kỉ VIII cũng chép: “ sau con vua Thục đem qn đánh chiếm tự xưng làsai hai sứ cai trị hai xứ là Giao chỉCửu chân tức làvậy”. Theo Nam Việt chí được dẫn lại trong Cựuthư, phần địa lí chí viên biên soạn thế kỉ X “ thì vuathục cho con làcai trị đất Giao chỉấy nay nằmphía đơng huyện Bình Đạo”. như vậy các thư tịch cổ của Trung Quốc đều chéplà con vua Thục nhưng khơng cho biết cụ thể vua Thục là aiThục ở đâu tuy sách vở Trung Quốc xưa viết nhiều, kĩBa thục mộtđã thực sự tồn tại ở vùng Tứ Xun thời xn thu chiế quốc nhưng cũng khơng thấy cụ thể nào nóimối quan hệ giữa Ba thụcVăn lang. Sách Hoaquốc chí của Thường Cứ, người đời Tấn là bộ sách đã phân phối cho tất cả chúng ta nhữngbiếtlịch sử địa líBa thục cũng khơng thấy nhắc đến tên Thục phánviệc Thục phán đánh đượcVăn lang, trong khi nó lại cho biết một cách chu đáo tình hình thay đổi chớnh trị trong từng quận huyện, sau khinày bị diệt năm 316 TCN “Thục xưngvào lúc nhà Chu suy vong. Vua đầu tiên là Tàm Tùng cũng như các vua sau chỉ lo dậy dân cày cấy làmkhơng có chinh chiến gì. Đó là bước đầu xây dựngtriều, nên vua Thục chưa có thế lực để phát triển ra bên ngồi. Đến lúc “thất quốc” suy vong (476 TCN) vua Thục là Đỗ Vũ cũng xưng đế lấylà Vong đế đổi tên là Bồ ty “ tự cho cơng đức cao cáckhác….các sơng giang tiềm, miên,làm thành trì, lấy núi Văn sơn làm nơi chăn ni, lấy Nam trung làm thượng uyển” đó lần trước hết Thục bành trướng. Theo địa danhcác tên đất trên chủ THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 3 yếu nó hướngphía bắcphía đơng. Đỗ Vũ nhường ngơi cho Khai Minh, con Khai Minh đánh Tần đến đất Ung “ đánh Thanh y, hùng cứ cả lão bặc….Thụcphong cho em là Hà Manh giữ đất Hán Trunglà Thư Hầu Thư Hầu kết thân vớiBa,Ba lại thù với Thục. Thụcgiận đánh Thư hầu, Thư hầu chạy đến Ba cầu cứu Tần… Mùa thu năm Chu thuậnthứ V quan qn của Tần là bọn đại phu Trương Nghi, Tư Mã Tháo đánh Thục, Thụckháng cự với Hà Manh, bị thua chạy đến Vũthì bị qn Tần giết tướng phóthái tử của vua Thục luiPhùng Hương rồi chết ở núi Bạch Lộc đó là lần duy nhất Thụcphát triểnhướng đơng nam nhưng chưa hề vượt khỏiBa tức là chưa đến địa phận quận Tường Kha thời Hán sau này. Họ chưa vượt q thượng lưu sơng Trường giang ngày nay hướng phát triển chủ yếu là đơngbắc nên gặp phải qn TầnSở. Những người dân Thục bịMơng đưa đi làmở Dạ Lang có cả người Thục nhưng chưa xuống đến đất Nam Việt thì chiến tranh đã kết thúc, lúc đó khơng còn Thụchọ khai minh nữa. Nhiều sử giacác nhà nghiến cứu đã tốn khơng ít giấy mực để vun đắp cho ức thuyết này. Trong số những người nghiến cứu gần đây thì Trần Thu Hòa là người đã bỏ nhiều cơng để vun đắp cho lý thuyết này. Nhưng chính ơng cũng đã nhận thấy một khó khăn lớn trong vấn đề là tuổi của Thục Vương.Thục bị Tần diệt vào năm 316 TCN. Nếu là con của Thụctử tính đến năm 214 TCN trong kháng chiến chống Tần thì ít nhất ơng cũng đã trên trăm tuổi, vậy làm sao có thể lãnh đạo nhân dân đánh thắng qn Tần? Vì thế ơng đã giả thuyếtcon di phúc. Tuy nhiên, đó chỉ là một giả thuyết hồn tồn vơ căn cứ khơng dựa trên một tài liệu cơ sở chữ viết nào, một truyền thuyết làm cơ sở cho giả định này. Các nguồn thư tịch cổ Việt Nam có thể nói xuất hiện muộn hơn các thư tịch của Trung Quốc nhưng lại có ghi chép rõ hơnnguồn gốc của Thục Phán -Vương. Viện Sử lược Bộ sử biên niên thời Trần chép “cuối đời Chu, Hùngbị con Vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay”. Tiếp theo đó trong Đại việt sử ký tồn thư các sử gia đã có một kỷ riêng “kỷ nhà Thục” để THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 4 chépThục PhánLạc, đoạn viết nhất định: “Nhà Thục,ở ngơi 55. Họ Thục tên Phán là người đất Ba Thục, đóng đơ ở Phong Khê” 3 . Sách “Đại Việt sử ký” thời Tây Sơn cũng chép gần giống thế: “Anhúy Phán, người Ba Thục ở ngơi 50 năm sử cũ cho là khơng phải”. Thuyết “Thục Phán gốc người Ba Thục” chiếm địa vị độc tơn trong những tác phẩm sử học thời Lê sơ cho đến đầu thời Nguyễn. Trong “Lịch chiều Hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú viết “Antên là Phán người Ba Thục” 5 , đến cối triều Nguyễn trong khi biên soan Việt sử thơng giám cương mục, một số sự kiện trong lịch sử cổ đạinhà đã được xem xét phê phán lại, trong đó có thuyết Thục Phán người ba Thục. Thuyết này đã bị bác bỏ. Trong “Việt sử thơng giám cương mục” viết “Nước Thục đã bị qn Tần diệt từ năm thứ 5 đời Thuận Tĩnh Vương, nhà Chu (316 TCN) lúc đó làm gì có vua Thục nào? huống chi giữa đất Văn Lang với đất Thục còn có các thứ kiện – vi, dạ – lang, cùng, tạc, nhiễm, bàng cách xa nhau hai ba ngàn dặm.Thục ở xa, làm thế nào băng qua cácấy mà đến lấy được Văn Lang? Sử cũ đã chép: cháu vua Thục tên là Phán lại bảohọ Thục tên Phán người ba Thục hoặc giả ở ngồi cõi Tây Bắc, giáp liền vớiVăn Lang có người họ Thục, bèn cho là Thụccũng chưa biết chừng. Nếu bảoThụclà người ba Thục là khơng phải” 6 . Trong việc sử lược, cuốn sử lược được thông dụng rộng rãi thời Pháp thuộc của Trần Trọng Kim khi bàn đến gốc tích nhà Thục cũng nhất định “Nhà Thục chép trong sửta khơng phải nhà Thục bên Tàu. Năm 1957, Trần Văn Giáp đã đề cập đến vấn đề này trong bài “Một vài ý kiếnngọc giảvấn đề Thục -Vương” ơng đã dẫn sách vở Trung Quốc để mang ra tổng kết sau: “Khoảng trước thế kỷ 13 TCN vua Thục ở Ba Thục” sai cháu là Phán đánh xuống miền Nam tức vùng Giao Chỉ đời Hántượng Quận đời Tần. Trong thời gian đó thìThục đã bị Trương NghiTư mã Thố nhà Tân đánh, chiếm lấy cảThục. Trong khi Phán mang 3 vạn qn ở miền Nam thìThục bị mấtvua bị giết chết. Đám 3 vạn qn ở miền Nam đó trởđâu? Phán tất phải đánh Tượng Quận, THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 5 chiếm lấy một khu căn cứ địa nào đó, làm chỗ đứng chân rồi dần da thiết lập thànhgọi làLạc, xưng làVương”. Đọc đoạn viết này tất cả chúng ta chỉ thấy một điều là sau khiThục bị Tần diệt người ta có nhắc đến người Thục,Thục cũ mà thơi. Chứ khơng minh chứng gì thêm cho ý kiến Thục -là người từ Ba Thục xuống. Bởi khu căn cứ địa nào đó làm chỗ đứng chân là khu căn cứ nào. Tác giả chưa nói rõ,lại theo cách lý giải của ơng thì Thục Phán là cháu Thụctử. Được sai dẫn qn đánh miền Nam, vậy là ít nhất tại thời điểm đó Phán phải là một tướng tài hoặc có uy tín. Việc này diễn ra trước khiBa Thục bị diệt tức là trước 316 TCN. Vậy cần giải thích như vậy nàocuộc kháng chiến chống TầnTriệu Đà củatrong khi người lãnh đạo lãnh đạo họ cũng là Thục Phán người cách đây khoảng 100 năm đã “đánh Tượng Quận chiếm lấy một khu căn cứ nào đó làm chỗ đứng chân rồi dần dà lập thành mộtgọi làLạc”. Dựa trên nền tảng đó, tất cả chúng ta có thể bác bỏ quan điểmlà người Ba Thục. Quan niệm thứ hai, cũng là một ý kiến nghiến cứu đáng quan tâm “Anlà người từ Ai Lao di đến”. Trước tiênvị tríThục, Hùng- Ngọc phả cho biết “vua thục phụ đạo xứ Ai Lao cũng là dòng giõi vua Hùng, được tên Hùng Tấnmuốn nhường ngơi cho con rể là Sơn Tinh (Tản Viên sơn thánh) lên triêu tập binh mã sang đánh”. Thần tích đền Mủi xã Thanh Un, huyện Tam Nơng, Vĩnh Phúc kể: “Đời Hùngthứ 18 có giặc Ai Lao sang đánhta. Chúng chia qn làm 5 đạo… vua mời Tản Viên sơn thánh đi đánh”. Sự tích Thiên Thai đạimột vị tướng của Tản Viên có đoạn viết “đời Hùngthứ 18… có qn Thục đến đánh giặc cùng Tản Viên sơn thánh chia thành hai đạo qn đánh tan giặc”. Thần tíchCao Sơn, Q Minh hai bộ tướng của Tản Viên được thờ ở xã Cảnh Mỹ cũng chép chuyện hai ơng đi đánh giặc Thục tức giặc Ai Lao ở Tây Bắc. Sách “Sơn Tây thần tíchsơn huyện, Lạp Tuyết sơn xã, thơng đạt thần tích” chépchuyện Nam Hải đại cương cũng THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 6 có đoạn viêt: “… Lúc đó bộ chủ Ai Lao là Thục Phán đem qn sang đánh bị Tản Viên sơn thánh đánh cho thua”… Chuyện cơng thần nhị vị đạiphả lục, trong sách thần tích các xã thuộc huyện Sơn vi tỉnh Phú Thọ cũng nói: “thời bấy giờ Hùng Duệgả cơng chúa Mỵ Nương cho Tản viên sơn thánh tên là Nguyễn Tùng Thi, Thục phán chúa Ai Lao đem 10 vạn binh 8 nghìn ngựa sang đánh, Duệhỏi kế Sơn thánh nói: Nên cử anh em Cao Hưng đem binh tuần tiễu các nơi… đến xã Bản ngun đóng đồn… sau cùng với Sơn thánh đánh giặc tồn thắng trởThục âp”.vị trí các trận đánh, truyền thuyết địa phương nào cũng nói là qn Thục cũng đi qua vùng ấy, nếu căn cứ vào đó thì thấy trận chiến tranh xảy ra ở một vùng rộng lớn, phía Đơng tới Sóc Sơn, bắc tới Hà Giang, Lai Châu, phía Tây tới Hòa Bình, phía Nam tới Ninh Bình. Trong khu vực được chỉ định một cách chung chung ấy thì tuyệt đại đa số truyền thuyết địa phươngthần phả ở Vĩnh PhúcHà Tây lại tập trung chỉ rõ hướng giặc Ai Lao tấn cơng từ phía BắcTây Bắc trên lưu vực sơng Hồngsơng Mã. Có thể kể như thần tích đền gò Chám xã Dị Nậu, huyện Tam Nơng, Vĩnh Phúc ghi rằng: “Thời Duệqn Thục sang đánhta. Cao sơn Đạigiúp Tản Viên sơn thánh tới thẳng trận tiền ở Mộc Châu là nơi đóng qn chính của giặc”. Căn cứ vào việc thờ thần Tản Viên phân bố rộng rãi trong tồn bộ vùng cư trú của người Việtmột phần người Mường thì thấy trận chiến tranh chống Thục thúc đẩy đến tồn bộ vùng trung duđồng bằng Bắc bộ. Hiện tại vùng tập trung đa phần của những trận đánh lớn thì đều ở phía TâyTây bắc đồng bằng Bắc bộ. Tham khảo nhiều truyền thuyết thìnhư giả thuyếtThục có liên quan tớiAi Lao (Lào)láng giềng phía Tây củata thời nay. Nhưng tiếc thay những tài liệu lịch sử thành văn chỉ mới cho phép tất cả chúng ta soi sáng lịch sửLào từ khoảng giữa thế kỷ 14 trở lại đây. Như vậy tương ứng với giai đoạn lịch sử cuối đời Hùngtrong lịch sửLào chưa hề thấy THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 7 một tổ chức quốc gia hay một nhóm bộcó tên là Ai Lao cả. Mặt khác qua nhiều cuộc thăm dò trên thung lũng sơng Hồng các nhà nghiến cứu thấy xuất hiện chữ Lao trong tên đất tên sơng: chân lao ở bờ đầm Chính Cơng, ngòi lao ở Hạ Hà, ngòi kiên lao ở ngàng Lan Đình… Chữa A dùng riêng hoặc phối hợp với một số chữ khác đứng trước hoặc xếp sau như núi A (274m ở sát ngã ba Nhân Mục). Như Sơn A ở sát đơng bắc cánh đồng Nội… như vậy các nhà nghiến cứu phỏng đốn rất có thể ở khu vực thung lũng sơng Hồng có thể có thên Việt cổ là A Lao mà sau này đọc nhầm, viết nhâm thành Ai Lao. Thường cứ cũng khi “đất Thục đơng giáp ba, nam tiếp với Việt, bắc tiếp Tần”. ở đây tác giả cho Thục giáp Việt. Sau này khi nhà Tây Han đặt ra hai châu íchDao thì địa bàn hai châu tiếp giáp nhau nhưng cũng khơng córanh giới cụ thể .Dần dàsau châu Giao thu hẹp với địa phận là khu vực miền Bắcta. Trái lại châu ích được mở rộng gồm cả khu vực tỉnh Vân Nam, Q Châu, Tứ Xun ngày nay đến đời tam quốc .cũng có khi tac giả dùng lối định vị xưa ma cho bất cư mơt vị trí nào từ quảng tây đến Tứ Xun đều có thể là Thục. Thủy kinh chú dẫn Giao Châu ngoại vực ký có ghi là Thụctửngười sau dịch Thụctử là con vua Thục. Nhưng ta cũng có thểtheo cách khác. Thủy tinh chú cũng ghi: “Thanh ytử hâm mộ chế độ nhà Hán bèn xin nội thuộc”. Đây là vua Thanh y quyết định việc hàng Hán chứ khơng phải con của vua Thanh y. Vì vậy vì vậy cũng có tài liệu ghi là: “Thụcđánh Hùng Vương”. Trong một nội dung tác giả Nguyễn Huy Hinh từng nhận xét “Giữa Giao Châuích Châu chỉ hạn chế đến điển, khơng vượt qua khỏi điền đến Ai Lao di bao giờ, Ai Lao di cũng chưa từng trở thành mộthùng mạnhcó xu thế phát triểnphía Giao Châu bao giờ. NgayĐiền ở bên cạnh cũng chưa từng có hành động gì vào phía Giao Châu dù Điền rất phát triển. Những thần tích ghi việc Thục Phán cai trị ở Ai Lao là những tài liệu do người sau này viết. Từ Ai Lao ở đây phải chăng là Ai Lao di hay là Lào ngày nay. THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 8 Quan điểm thứ ba cho rằnglà ngườiViệt theo sự gợi ý của sử ký. Tâylàở trần. Các sử gia thời bấy giờ khi phân biệt các nhóm tộc thường chú ý đến trang phục của các dân tộc. Mà Tư Mã Thiên cũng như các sử gia đời sau đã mơ tả, chúng ta khơng thấy nói đến nhóm người ở trần nào khác. Người Thục, người Điền đều khơng ở trần, nhiều tượng người thổi kèn đượcthấy trong quan tải mộ Việt Khê. Những tượng đồng trên thạp đồng Đào Thịnh v.v… đều đóng khố, đó là một hình thức ở trần. Đây là một dấuphân biệt ngườivới người Nam Việt, người Thụchọ đi đến khẳng địnhlà ngườiViệt. Sáng đến những năm đầu thế kỷ 20 nhiều người tỏ ý nghi ngờ vua Thụcthành Cổ Loa tiêu biểu như Ngơ Tất Tố với bài: “Nước Nam khơng có ơngnhà Thục” hay một số nhà khảo cổ như ơng Trương, ơng Đỗ cũng nghi ngại thành Cổ Loa hay một phòng ban của nó là thành nhà Hán… nhiều học giả còn phủ nhận sự thậtcho rằng đó chỉ là nhân vật trong truyền thuyết. Học giả Pháp Maspéro cũng cho“ là một nhân vật chưa chắc chắn đã có trong lịch sử, là một ơng vua huyền thoại vì sử cũ chỉ chép theo truyền thuyết mà thơi”. Tuy nhiên toàn bộ những ý kiến trên còn chứa đựng trong nó q nhiều mâu thuẫnnhiều điều chưa hợp lý. Vài cách giải thích mang tính chất giả định cao chưa có những tài liệu hay bằng cớ nào cụ thể. Bởi vậy, hiện tại các nhà nghiến cứu vẫn đang trên conkiếmsự thậtnguồn gốc Thục Phán -Vương. Một vấn đề còn gây nhiêu tranh cãi giữa các nhà sử học nghiến cứuthời đạiđó là thời gian tồn tạiLạc. Đây là vấn đề cũng được nhiều người quan tâmhiểu. Họ đã mang ra nhiều ý kiến khác nhau với những kiến giải riêng. Trong số đó nổi bất nhất là ba ý kiến sau:ra đời năm 257 TCN, kết thúc năm 208 TCN tồn tại trong khoảng 50 năm.ra đời trong khoảng 210 TCN, kết thúc năm 207 TCN, tồn tại trong khoảng 4-5 năm. THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN 9ra đời năm 208 TCNkết thúc 179 TCN tồn tại trong khoảng 30 năm. THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN […]… Phán -là ngư i có q qn g c tích Cao 19 THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN B ng Dân gian có nh t n Cao L m t v tư ng tài năngthân tín vào b c nh t, m t ngư i anh em k t nghĩa c a- cũng có q B ng Nhi u v tư ng c aho t ng Cao C Loakhu v c xung quanh cũng ư c dân gian gi i thích là ngư i mi n núi phía B c như N i H u – m t b tư ng gi i c aVương. .. o sát m t s di tíchtruy n thuy t có liên quan n huy n Hòath y rõ s trùng khít th ng nh t gi a di tíchtruy n thuy t c bi t là các câu chuy n v Th c 16 THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN Phán – An Dương Vương nư c Nam Cương ãsâuký c c a nhân dân t lâu i Truy nxây thành C Loa nhi u l n mà v n b sau ph i nh Rùa vàng giúp cách xây thành m i xong, Rùa vàng còn giúp vua di… Ph m viphương pháp nghi n c u V C u trúc tài Ph n 2: N i dung: I Ngu n g c Tày c c a An Dương Vương 1 M t vài nét v Cao B ngt c ngư i Tày c 2 Văn hóa Tày Tháivăn hóa Vi t c 3- ngu n g c Tày c II Th i gian t n t i nư cL c 1 Th i gian ra i 2 Th i gian k t thúc 10 THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN PH N II N I DUNG I NGU N G C TÀY C C A TH C PHÁN -1 M t vài nét… Hùng Vương, xưng là An Dương Vương , l p ra nư cL c B i v yL c ch là s ti p n i c a Văn Lang Nó ra iư c bao b c trong hào quang chi n th ng Vì th khơng th coi vi c Hùngb Th c Phán thay th ,L c thay th Văn Lang là cu c u tranh thơn tính hay là cu c xâm lư c c a k ngo i t c Cách lý gi i này hồn tồn phù h p v i ngu n g c Tày c c a An Dương Vương 2 V th i gian k t thúc nư cL c… Hương Canh (Vĩnh Phúc) nhưng t ba il i Tun Quang Ni m Hưng, Ni m H i, hai tư ng c a Hùngư c th làng L Khê (Liên Hà – Cao B ng chung s ng ây ư c m t ơng Anh – Hà N i) cũng t i Nhi u ngu n tư li u dân gian còn cho th y lòng kính u, tơn sùng sâu s c c a nhân dân i v i Th c Phán -Vi c th cúngã tr thành m t truy n th ng văn hóa tín ngư ng l n C Loa, l tVương. .. xâm nh p c a Qn T n vào t L c Vi t – Song truy n thuy t nói r ng T n Th y Hồng mu n t n cơngnênph i hi n Lý Ơng Tr ng (Lý Thân) xin hòa, nhưng có ph ith y khơng ch ng n i qn T n mà ph i xin hàng hay khơng? Theo s ký thì nhà T n “Sai giám sát làL c ào C h lương vào sâu t Vi t Ngư i Vi t tr n (Qn T n) trì c u lâu ngày lương th c b tuy tthi u Ngư i Vi… s mchínhã em kinh nghi m ó xu ng vùng thành C Loa c kính nhưng 18 n, Tó, N … ư c ng b ng Cu i cùng m t ã ư c xây d ng nh s chung s c ng Tây- L c Vi t ây là m t minh ch ng cho m i liên h m t thi t gi a vùng C Loavùng Núi phía B c, gi a An Dương Vương ngư i Tày C c Văn hóa tâm th c dân gianngu n g c các v tư ng c aTrong tâm th c dân gian vùng C Loa,… hóa Vi t Nam” Có l nh: “Như v y có t c a ti ng Vi t, t c u vào s hình thànhbư c u phát tri n c a ây là m t lý do gi i thích t i sao- Th c Phán lên ngơi tr vì thì c hai t c ngư i Tày TháiVi t Mư ng ã ng h ơng 3là ngư i Tày c S dĩ chúng tơi có th nói r nglà ngư i Tày c ” là b i chúng tơi d a vào nh ng nguyên nhân s trình bày sau ây: a T truy n thuy t thư… ng tr ngo i t c, căn c vào nh ng phát hi n kh o c h c khơng th y m t văn hóa v t ch t riêng bi t c a th i kỳV m t t ch c dân t c cũng v y, nhân dân ta bao Th c, vua chúa c a các tri u i nay i u trân tr ng kính th c vua Hùngvua u gia phong m t coi c HùngTh clà nh ng v “H qu c tý dân” V l i gi slà k ngo i bang xâm lư c di t Văn Lang thì qu th c chúng… viphương pháp nghiên c u 10 1 Ph m vi nghiên c u 10 2 Phương pháp nghiên c u 10 V C u trúc tài 10 PH N II N I DUNG 11 I NGU N G C TÀY C C A TH C PHÁN -1 M t vài nét v Cao B ngt c ngư i Tày c 11 2 S g n gũi c a văn hóa Tây – Tháivăn hóa Vi t c 12 3là ngư i Tày c 14 II TH I GIAN RA 1 Th i gian . Vương là ai còn chưa rõ, nước Âu Lạc ra sao cũng chưa hay. Tìm hiểu về An Dương Vương và thời gian tồn tại nước Âu Lạc giúp chúng tơi hóa. sử học nghiến cứu về thời kì An Dương Vương đó là thời gian tồn tại nước Âu Lạc. Đây là vấn đề cũng được nhiều người quan tâm và tìm hiểu. Họ đã mang ra

Xem Thêm :   Lịch sử 11 Bài 12

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Giáo Dục

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung

Related Articles

Back to top button