tập truyện Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu (Qua
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.64 KB, 70 trang )
Khoá luận tốt nghiệp
3.1.2. Hình thức nhân vật kể chuyện
Trong 5 truyện được thăm dò thì có 3 truyện sử dụng hình thức nhân vật
kể chuyện: Nguồn suối, Nhành mai và Người mẹ xóm nhà thờ. ở cả
ba truyện này nhân vật kể chuyện đều là người lính. Đây cũng là dấu hiệu
thường thấy trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975.
ở tập truyện Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu đã sử dụng hình thức nhân vật
kể chuyện cho hai trong số ba truyện, đó là truyện Cỏ lau và Mùa trái cóc ở
miền Nam. Nhân vật kể chuyện trong Cỏ lau là một người lính (Lực) vừa đi
qua chiến tranh tự kể chuyện mình còn trong truyện Mùa trái cóc ở miền
Nam lại là một nhân chứng- một nhà báo. Không những phong phú hơn về địa
vị xã hội của nhân vật kể chuyện, trong tập Cỏ lau, nhân vật kể chuyện còn
được trổ tài là những con người có chiều sâu nội tâm.
Thăm dò 25 truyện của Nguyễn Minh Châu được tuyển chọn in trong
cuốnNguyễn Minh Châu- tuyển tập truyện ngắn [1], chúng tôi thấy có
13/25 truyện sử dụng hình thức nhân vật kể chuyện. Có thể nói, Nguyễn Minh
Châu đã sử dụng khá cân đối hai hình thức kể chuyện trong các sáng tác của
mình. Nhưng ở tập truyện Cỏ lau, tỉ lệ 2/3 truyện được sử dụng hình thức
nhân vật kể chuyện cũng phần nào cho thấy xu hướng để cho nhân vật tự nói
về mình của Nguyễn Minh Châu trong những sáng tác cuối đời.
3.2. Các biện pháp trổ tài văn nghệ
3.2.1. Biện pháp độc thoại nội tâm
Biện pháp độc thoại ít được Nguyễn Minh Châu sử dụng trong các sáng
tác ở giai đoạn trước 1975. Thăm dò các truyện trên, chúng tôi thấy có truyện
hầu như không có độc thoại như: Nguồn suối, Nhành mai hoặc nếu có
thì chỉ là những độc thoại rất ngắn như độc thoại của Lê trong Những vùng
trời khác nhau, của Lãm trong Mảnh trăng cuối rừng. Những độc thoại
này lại thường hay hướng về những đối tượng ở bên ngoài chủ thể, như độc
thoại của Lê: Cái thằng Sơn ấy- những ngày đầu Lê nghĩ về Sơn như vậy- cái
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
48
Khoá luận tốt nghiệp
thằng Sơn ấy mới gặp thì chẳng ưa được, không biết sau này sống với nhau ra
sao? Hắn đi bộ đội để con gái viết thư chắc? Sao có nhiều người viết thư cho
hắn thế? Chả trách lúc nào hắn cũng kêu nhớ nhà, nhớ Hà Nội. Dễ thường
mình không có gia đình, làng xóm ư? Hắn là một cậu học trò ba hoa, hắn
không phải là mình, là kẻ cầm súng[1,Tr.41] hay những tư duy thầm kín
của Lãm về Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng. Nếu có nghĩ về mình,
nhân vật cũng lại tự đặt mình, nhìn nhận mình trong mối quan hệ với số đông,
với cộng đồng. Việc sử dụng ít độc thoại nội tâm và lại thường có tính hướng
ngoại đã chứng tỏ trước 1975, Nguyễn Minh Châu hầu hết viết về cộng đồng,
dân tộc, ít đề cập đến con người cá nhân.
Đến tập truyện Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu đã coi trọng biện pháp độc
thoại như là một biện pháp trọng yếu để trổ tài nhân vật. Có những độc
thoại khá dài và hầu hết các nhân vật chính của tập Cỏ lau đều có những lúc
độc thoại: Lực (Cỏ lau), nhà báo (Mùa trái cóc ở miền Nam), lão Khúng
(Phiên chợ Giát). Các hình thức độc thoại cũng phong phú, mỗi nhân vật có một
kiểu độc thoại riêng: nhân vật Lực, nhà báo thường tư duy thầm kín, nhân
vật lão Khúng còn có độc thoại nói to, những độc thoại nhoè với đối thoại, tâm
tình. Các độc thoại thường có tính hướng nội nghĩa là các nhân vật tự nhìn vào
cõi lòng mình, tự nói về mình, về những tư duy của mình một cách chân
thực. Nội dung của độc thoại cũng rất phong phú. Đó là những đau khổ , dằn
vặt của Lực (Cỏ lau)- một nạn nhân của chiến tranh, cũng là con người của
chiến tranh; là nỗi niềm trắc ẩn của nhà báo trước cái xấu, cái ác, cái éo le
của cuộc sống hay những ý tưởng, tư duy đầy rối rắm và gai ngạnh của lão
Khúng. Ngoài ra, khi độc thoại, các nhân vật cũng hướng về những con
người, sự kiện của đời thường. Họ nhìn nhận mình trong những mối quan hệ
phức tạp của xã hội.
Bằng việc sử dụng tăng cường biện pháp độc thoại, Nguyễn Minh Châu
đã xây dựng được thể giới nhân vật có đời sống nội tâm phong phú, đời
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
49
Khoá luận tốt nghiệp
thường hơn rất nhiều so với các nhân vật trong giai đoạn trước đó. Và với tập
truyện Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu đã làm được cái điều mà như Heghen nói:
Cần phải trần thuật về những tình cảm, những tư duy cũng như về toàn bộ
những gì ngoại hình như một cái gì đã xảy ra, đã nói ra, nghĩ ra. Qua đây, ta
còn thấy Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề đổi mới cách viết, hướng văn
học vào những số phận cá nhân, mang văn học vào trận đấu tranh cho quyền
sống của mỗi con người thỏa mãn yêu cầu của tình hình mới.
3.2.2.Biện pháp đối thoại
Thăm dò 5 truyện ngắn trên, so sánh những đối thoại và độc thoại,
chúng tôi thấy đối thoại chiếm tỉ lệ rất cao. Có thể nói, trước 1975, Nguyễn
Minh Châu sử dụng biện pháp đối thoại như là biện pháp trọng yếu nhất
trong việc để cho nhân vật tự bộc lộ mình. Các đối thoại thường ngắn gọn, để
lại dấu ấn về giới tính, công việchơn là bộc lộ đời sống nội tâm. Có thể thấy
điều này qua lời thoại của các nhân vật: Ngạn, Y Khiêu (Nguồn suối); Lê,
Sơn (Những vùng trời khác nhau); Lương, Thận (Nhành mai) thậm chí
đứng trước một chuyện ngạc nhiên hay một tình huống khó khăn nào đó nhân vật
cũng ít bộc lộ xúc cảm, tâm trạng trong lời nói. Nhân vật Y Khiêu (Nguồn
suối) trong cuộc trò chuyện với chồng, được chồng thông báo tin con trai sắp
đi bộ đội cũng chỉ nói những lời ngắn gọn:
Chị rót thêm cho ông Hừng và con trai. Ông Hừng gật đầu bảo vợ:
– Tháng sau, thằng Vang đi đại chiến xa đó.
Y Khiêu tròn mắt nhìn chồng:
– Đi khi nào đuổi hết thằng Mỹ mới về ư? Ai bảo nó.
– Anh Ngạn đã chấm tên nó vào danh sách rồi. Nó đi đại chiến xa là
vinh dự cho gia đình ta.
Y Khiêu quay về phía con, hỏi:
– Thật không, Vang?
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
50
Khoá luận tốt nghiệp
– Thật mà, con xung phong đi.
Y Khiêu khẽ thở dài rồi nói quyết đoán.
– Thôi, mình cứ giao thằng Vang cho anh Ngạn, đi đến đâu thì đi.
[1,Tr.11]
Giống như ở nhiều sáng tác khác trong thời kì kháng chiến, các nhân
vật trong truyện của Nguyễn Minh Châu thời kì này được đặt trong các mối
quan hệ hầu hết là quan hệ đồng chí, quân- dân, ta- địch và họ đối thoại với
nhau về những vấn đề chung, to lớn mang tính cộng đồng, lịch sử.
Khác với các sáng tác của giai đoạn trước, ở tập truyện Cỏ lau, Nguyễn
Minh Châu đã sử dụng một cách cân đối giữa đối thoại và độc thoại. ở đây
ngoài những đối thoại ngắn còn có rất nhiều những đối thoại dài mang tính
chất tâm sự như đối thoại của bà mẹ trong Mùa trái cóc ở miền Nam, một số
đối thoại của Quảng trong Cỏ lau. Đặc biệt có những đối thoại nhoè với độc
thoại (đối thoại của lão Khúng với con bò, với đứa con trai đã chết). Các đối
thoại trong tập truyện này vừa ghi lại những dấu ấn về dấu hiệu bên ngoài vừa
khắc hoạ cái bên trong. Qua lời nói của nhân vật, người đọc có thể hiểu được
nhân vật nghĩ gì, có tính cách như vậy nàoNgôn ngữ đối thoại của các nhân
vật đã được cá thể hoá chứ không mang tính khách quan, chung chung như
giai đoạn trước. Đặt nhân vật trong nhiều mối quan hệ phức tạp, có khi trong
một quan hệ lại bộc lộ nhiều tính chất (quan hệ Quảng- Lực trong Cỏ lau vừa
là quan hệ chủ quán với khách hàng vừa là quan hệ giữa hai người đàn ông
cùng là nạn nhân của chiến tranh, vừa là quan hệ đồng chí, lại vừa là quan hệ
của hai người là tình địch), Nguyễn Minh Châu đã để cho các nhân vật đối
thoại về rất nhiều vấn đề: về chính mình, về mối quan hệ cái riêng- cái
chungCác đối thoại mang tính hướng nội cao và nhân vật đối thoại vừa là để
thể hịên con người mình vừa là muốn ở người khác sự thấu hiểu, chia sẻ
(đối thoại của Quảng, đối thoại của bà mẹ). Như vậy các đối thoại của tập
truyện Cỏ lau mang dấu ấn cá nhân sâu đậm hơn, có chất đời thường hơn các
đối thoại trong các sáng tác ở giai đoạn trước.
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
51
Khoá luận tốt nghiệp
3.2.3. Biện pháp để cho nhân vật tâm tình
Như trên đã nói, đối thoại trong các sáng tác trước 1975 của Nguyễn
Minh Châu thường ngắn gọn, hầu hết để trao đổi thông tin hơn là bộc lộ tâm
trạng, xúc cảm. Do đó mà rất ít có tâm tình. Qua thăm dò 5 truyện đã nêu,
chúng tôi thấy có truyện hầu như vắng bóng biện pháp tâm tình như Nguồn
suối, Người mẹ xóm nhà thờ. Trong truyện Mảnh trăng cuối rừng, lời
của Lãm có thể coi là lời tâm tình với những người đồng đội về mẩu chuyện
tình yêu của anh. Đây là một lời tâm tình đầy chất thơ, được nói bằng tâm hồn
của một người đang yêu và nó cũng là một trong số những trường hợp đặc biệt
trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn trước.
Đến tập truyện Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu lại sử dụng biện pháp tâm
tình với mức độ cao. ở truyện nào cũng có những nhân vật có lúc tâm tình: ở
truyện Cỏ lau là Quảng, Mùa trái cóc ở miền Nam là bà mẹ, Phiên chợ Giát
là lão KhúngNgoài những nhân vật chính, Nguyễn Minh Châu còn dành
biện pháp tâm tình cho một số nhân vật phụ để người đọc thấy được chiều sâu
tâm hồn ở những con người tưởng như khô khan hay hư hỏng (như nhân vật
Huệ trong truyện Cỏ lau). Trong tập truyện này có những lời tâm tình dài cả
trang và thấm đẫm xúc cảm. Lời tâm tình của bà mẹ trong Mùa trái cóc ở
miền Nam là những lời như được chắt ra từ cõi lòng đớn đau của một người
đàn bà đã trải qua quá nhiều xấu số: Ông ạ, tôi thật ngu dại, sau cái câu lỡ
lời ấy của tôi là con tôi từ đó không thèm nhìn mặt tôi một lần nào nữa. Cháu
đuổi tôi thẳng một mạch. Từ cái đêm đó cho đến khi bước chân xuống tàu,tôi
không còn được gặp cháu. Thấm thoắt vậy mà đã hai mươi năm! Ôi sao nhanh
thế. Đến lúc này năm nay cháu đã 31 tuổi, chắc cháu cũng đã tha thứ cho tôi,
cho đời tôi, cho những lời dại dột của tôi () [1,Tr.541].
Bằng việc tăng cường biện pháp tâm tình, Nguyễn Minh Châu đã thể
hiện được những trạng thái dồn nén của xúc cảm, nhất là nỗi đau khổ của
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
52
Khoá luận tốt nghiệp
con người. Nhà văn đã nhìn ra những trắc ẩn trong mỗi cá nhân và nêu ra rằng
xoay quanh mỗi cuộc sống có bao nhiêu điều thầm kín mà phải tới một mức độ
nào đó của xúc cảm, người ta mới giãi bày để vơi lòng, để mong một sự cảm
thông, chia sẻ. Điều này lại càng có vẻ thích hợp trong hoàn cảnh quốc gia
vừa đi qua chiến tranh với biết bao thân phận của những con người là nạn
nhân của trận chiến. Những tâm tình của các nhân vật trong tập truyện Cỏ lau
đã thực sự trở thành những dòng ám ảnh người đọc khiến người đọc day dứt
không nguôi về số phận con người.
3.2.4. Biện pháp tạo xung đột – kịch tính
Trong hoàn cảnh quốc gia có chiến tranh, tranh chấp lớn nhất cấn tập
trung khắc phục là tranh chấp giữa quốc gia, nhân dân và kẻ thù xâm lược. Do
đó, tương tự như nhiều tác phẩm cùng thời, xung đột trong các sáng tác của
Nguyễn Minh Châu hầu hết là những xung đột mang tính chất đối đầu giữa ta
và địch. Trong các truyện ngắn của mình, nhà văn sử dụng biện pháp tạo xung
đột- kịch tính để phản ánh những xung đột bên ngoài. Tuy nhiên qua thăm dò
các truyện, chúng tôi thấy khi trổ tài xung đột, Nguyễn Minh Châu không
xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập tồn tại song song như thường thấy ở các
tác phẩm cùng thời. Truyện của Nguyễn Minh Châu thường chỉ xây dựng nổi
bật những nhân vật chính nghĩa, nhân vật của quân ta như: Ngạn (Nguồn
suối), Lương, Thận (Nhành mai), Lãm, Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng)
còn các thế lực đối đầu chỉ được mô tả thoáng qua, có thể được hiện hình
trong những hình ảnh chung chung như: những chiếc máy cất cánh trong Mảnh
trăng cuối rừng, bọn Phỉ trong Nguồn suốihoặc nếu là con người cụ thể thì
cũng ít được nhắc tới (thằng Phòng Nhì trong Nhành mai). Khắc hoạ
những xung đột đó, Nguyễn Minh Châu cũng không nhằm phản ánh cái ác liệt
của chiến tranh mà hầu hết qua đó để thể hịên vẻ đẹp của con người Việt
Nam. Do đó, các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu giai đoạn này thường ít
kịch tính hơn các tác phẩm của các nhà văn khác. Các xung đột đều được giải
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
53
Khoá luận tốt nghiệp
quyết theo hướng chính thắng tà, quân ta thắng lợi kẻ thù xâm lược (như ở
Mảnh trăng cuối rừng, Nguyệt và Lãm bảo vệ xe an toàn, Nguyệt chỉ bị
thương nhẹ) hoặc đang ở thế đi lên tất thắng (như ở truyện Nguồn suối, Người
mẹ xóm nhà thờ) đây là cách xử lý xung đột mang tính truyền thống với
xúc cảm sử thi lãng mạn, ngợi ca là hầu hết.
Sau chiến tranh và nhất là ở tập truyện Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu
không sử dụng biện pháp tạo xung đột- kịch tính như một biện pháp nghệ
thuật hầu hết trổ tài cái bên ngoài mà để trổ tài cái bên trong. Không tạo
ra những xung đột mang tính đối đầu nhưng những xung đột trong tập truyện
Cỏ lau lại gay gắt và dai dẳng. Đó là những xung đột tâm lí nhiều khi có tính
chất bi kịch của con người. Các nhân vật ở đây luôn luôn sống trong trạng thái
không yên ổn về mặt đời sống trí não. Nhân vật Lực trong truyện Cỏ lau
luôn phải do dự về hạnh phúc dang dở, tự ti về tội lỗi; Quảng luôn có
nỗi khổ tâm riêng vì cả hai lần lập gia đình đều không hạnh phúc; nhân vật
nhà báo trong Mùa trái cóc ở miền Nam triền miên trong nỗi dằn vặt, lo ngại
về con người; lão Khúng trong Phiên chợ Giát với muôn vàn tư duy và xúc
cảm chồng chéoNguyễn Minh Châu đã nhìn thấy ở trong mỗi con người là
một sự thống nhất trong tranh chấp và tính cách con người là rất phức tạp.
Các xung đột trong tập Cỏ lau cũng phong phú như chính nó trong cuộc
sống: có xung đột giữa hoàn cảnh và tính cách (trong truyện Cỏ lau), có xung
đột giữa tính cách với tính cách (xung đột giữa Thái, Toàn, Đĩnh với Lưu,
Phác trong Mùa trái cóc ở miền Nam), có xung đột giữa các mặt của một
tính cách (xung đột cao thượng và ích kỉ ở Lực trong Cỏ lau; chất phác, hiền
lành với ranh mãnh ở lão Khúng trong Phiên chợ Giát). Khác với các tác
phẩm ở giai đoạn trước, trong tập Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu chỉ gợi ra xung
đột chứ không mang ra hướng khắc phục. Với cách kết thúc mở, Nguyễn Minh
Châu muốn người đọc cùng sáng tạo và như muốn nói với tất cả chúng ta rằng: trong
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
54
Khoá luận tốt nghiệp
cuộc sống và trong mỗi con người luôn luôn tồn tại những tranh chấp, xung
đột. Nhà văn đã tiếp cận đời sống một cách đời thường nhất, nhìn nhận con
người với cả niềm tin lẫn âu lo chứ không phải xúc cảm ngợi ca một chiều
như các sáng tác ở giai đoạn trước đó.
3.2.5. Biện pháp thảo luận, triết lí.
Thăm dò 5 truyện ngắn đã nêu, chúng tôi thấy trong chiến tranh, các
sáng tác của Nguyễn Minh Châu hầu như không xuất hiện những lời nói trực
tiếp có tính triết lí. Biện pháp thảo luận, triết lí được sử dụng trong các tác
phẩm này hầu hết ở sự lặp lại một cách có dụng ý một số cụ thể hay việc sử
dung các hình ảnh ẩn dụ, biểu trưng
Trong các truyện ngắn, chúng tôi thấy cụ thể tiếng cười là cụ thể trở đi
trở lại nhiều nhất: tiếng cười khúc khích vui vẻ (Nguồn suối); nghe giọng
cười mới đáng yêu làm sao (Nhành mai); Nguyệt nhìn vết thương cười
(Mảnh trăng cuối rừng) Qua những cụ thể đó, Nguyễn Minh Châu muốn
trổ tài niềm tin yêu cuộc sống, trí não lãng mạn của con người Việt Nam
trong tranh đấu cách mạng.
Chất triết lí trổ tài rõ nhất trong các sáng tác ở giai đoạn trước 1975 là
ở những hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tổng quan cao. Đó là hình ảnh những
cây mai nở hoa trắng muốt với sức sống vô cùng: Bên lối cũ gốc cây mai cổ
thụ bị địch chặt ngày nào đã đâm chồi mới, rất mộc mạc và rùm roà, những
cành hoa mới nở làm ấm một góc sân. [1, Tr.20] hay hình ảnh con suối chảy
không ngừng nơi bản Pakhen trong truyện Nguồn suối, mảnh trăng khuyết
sáng trong như một mảnh bạc trong Mảnh trăng cuối rừngĐây đều là
những hình ảnh tiêu biểu cho nét đẹp của tự nhiên. Nguyễn Minh Châu đã đặt
những hình ảnh đó xuất hiện song song cùng với con người để trổ tài vẻ đẹp
của con người Việt Nam. Mỗi hình ảnh ấy đều có ý nghĩa tượng trưng: nguồn
suối là biểu tượng cho sức sống từ ngọn nguồn truyền thống của dân tộc,
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
55
Khoá luận tốt nghiệp
nhành mai tượng trưng cho niềm tin và sức sống của tình yêu, mảnh trăng là
biểu tượng cho vẻ đẹp của những cô gái Trường Sơnqua việc sử dụng
những hình ảnh ẩn dụ ấy, Nguyễn Minh Châu muốn tổng quan, ngợi ca vẻ đẹp
của nhân dân ta trong tranh đấu cách mạng.
Đến tập truyện Cỏ lau, biện pháp thảo luận, triết lí đã được sử dụng với
những dấu hiệu cụ thể, phong phú hơn: ở lời nói trực tiếp có tính triết lí, ở sự láy
lại một số cụ thể, sự kiện, ở những ẩn dụ, biểu tượng. Trong tập truyện này,
Nguyễn Minh Châu đã để cho các nhân vật của mình nói lên những tư duy
mang tính triết lí, thảo luận về nhiều vấn đề của cuộc sống bằng những cách
miêu tả ngắn gọn, dễ hiểu như: Chiến tranh làm người ta hư đi hơn là làm
người ta tốt hơn [1, Tr.504] hay Đừng có khi nào cười cợt, chế nhạo cấp
trên [1, Tr.603]để cho nhân vật tự tổng kết những kinh nghiệm, tự suy
ngẫm về cuộc sống, Nguyễn Minh Châu đã chứng tỏ ông nhìn thấy trong mỗi
con người là một vũ trụ thu nhỏ và trong họ đều ít nhiều có tâm hồn của một
nhà tư tưởng.
Giống như các sáng tác giai đoạn trước, ở tập Cỏ lau, Nguyễn Minh
Châu cũng rất Note sử dụng các hình ảnh ẩn dụ. Cái khác ở đây là cách lựa
chọn hình ảnh và sắc thái dấu hiệu của nó. ở tập truyện này, những hình ảnh
ẩn dụ là cỏ lau, đá vọng phu (Cỏ lau), là bò khoang (Phiên chợ Giát). Chất
triết lí toát ra từ những hình ảnh đó không mang lại cho người đọc cảm tưởng yên
bình, tin tưởng như ở các biểu tượng giai đoạn trước mà nó gợi sự day dứt, ám
ảnh , do dự về lẽ đời, tình người. Các biểu tượng đều hầu hết hướng tới
tổng quan cái xấu số, độc thân: đá vọng phu là biểu tượng cho những đau khổ,
mất mát của những nạn nhân chiến tranh; cỏ lau biểu tượng cho sự vô tình
quên lãng; bò khoang biểu tượng cho cuộc sống nhọc nhằn của con người.
Qua biểu tượng, Nguyễn Minh Châu không phải không trổ tài cái tốt đẹp,
đáng tin tưởng ở con người (đá vọng phu biểu tượng cho sự hi sinh, chung
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
56
Khoá luận tốt nghiệp
thủy) nhưng trên hết vẫn trổ tài một nỗi lo âu và đặt ra cho người đọc muôn
vàn thắc mắc về những vấn đề của cuộc sống. Nguyễn Minh Châu đã thường
xuyên sử dụng biện pháp thảo luận, triết lí trong tập truyện Cỏ lau để tăng giá
trị nhận thức cho tác phẩm. Và cái tài của tác giả là đã tạo cho truyện tính
triết lí cao nhưng không gây cảm tưởng gò ép, thuyết lí bởi chất triết lí ở đây
được nâng đỡ bởi hơi thở của cuộc sống đời thường.
3.2.6. Biện pháp tả
Tả là một trong số các biện pháp được sử dụng nhiều trong các sáng tác
của Nguyễn Minh Châu trước 1975. Không có những đoạn tả cảnh dài hàng
trang nhưng Nguyễn Minh Châu đã đan cài trong tác phẩm nhiều đoạn tả cảnh
khá sinh động. Thiên nhiên thường rất đẹp và trong sáng. Đó có thể là con
suối trong xanh suốt ngày đêm chảy róc rách thầm thì, những cành đào
nở hoa đỏ rực rỡ (Nguồn suối) , hay những cây mai đang độ trổ hoa trắng
muốt (Nhành mai), một mảnh trăng thơ mộng sáng trong như một mảnh
bạc (Mảnh trăng cuối rừng)Khi mô tả, Nguyễn Minh Châu thường ưu
tiên những gam màu sáng: đỏ rực rỡ, trắng muốt, xanhVẻ đẹp của thiên
nhiên được đặt trong sự đối sánh với con người đã góp phần làm nổi trội vẻ
đẹp của nhân vật. Nguyễn Minh Châu mô tả thiên nhiên không chỉ với dụng
ý tạo không gian cho tác phẩm mà còn nhằm mục đích lấy thiên nhiên để thể
hiện nhân vật và nhất định, ca tụng nét đẹp hài hoà giữa thiên nhiên và con
người.
Khi trổ tài bức tranh cuộc sống, Nguyễn Minh Châu thường Note đến
tiếng động: tiếng súng, tiếng bom nổ, tiếng bước chân hành quân, tiếng cười
nói, tiếng hátđể tái hiện không gian và sinh hoạt thời chiến ,đặt nhân vật
trong cuộc sống chung của cộng đồng. Trong khi tả ngoại hình nhân vật, nhà
văn lưu ý đến khuôn mặt nhất là đôi mắt (đôi mắt Y khiêu trong Nguồn
suối, Sơn trong Những vùng trời khác nhau, Thận trong Nhành mai). Bên
cạnh đó là mô tả giọng nói, tiếng cười. Việc mô tả này không chỉ nhằm
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
57
Khoá luận tốt nghiệp
khắc hoạ một nhân vật cụ thể (như Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng với:
tiếng nói trong lắm và rất điềm tĩnh, cứng cỏi nữa là khác [1, Tr.81]) mà chủ
yếu, Nguyễn Minh Châu hướng tới xây dựng, làm nổi trội những tập thể nhân
vật. Đó là đội ngũ dân quân với tiếng cười khúc khích, vui vẻ [1, Tr.12], là
những người lính lái xe với những dịp cười vang lên chuyển cả rừng
[1, Tr.78], là những người lính pháo thủ hay tán chuyện và cười nói ầm ĩ
[1, Tr.47]Mô tả đôi mắt, tiếng cười, Nguyễn Minh Châu đã trổ tài được
sức sống, niềm tin, sự yêu đời của con người Việt Nam. Họ luôn vượt lên trên
hoàn cảnh và tìm được tiếng nói chung. Đặt nhân vật trong cộng đồng, nhà
văn chưa Note mô tả tâm trạng nhân vật trong những hoàn cảnh cụ thể. Thể
hiện tâm trạng của một người bà khi nói về chết chóc của đứa cháu mà bà rất
mực yêu thương, Nguyễn Minh Châu cũng chỉ mô tả ngắn gọn: () mẹ
Lân ngồi tựa chiếc cần vó, không động đậy. Chỉ có đôi mắt già nua phản
chiếu ánh lửa nhìn qua vai tôi, vào cái khoảng tối mênh mông, phía ngôi nhà
cũ. [1, Tr.75] hay tâm trạng của Ngạn (Nguồn suối) khi gặp lại người yêu cũ
nay đã có gia đình, tâm trạng của Lương (Nhành mai) sau mấy năm gặp lại
người con gái đã hẹn ước với mìnhcũng không được mô tả kĩ. Với nhân
vật Lãm, Nguyễn Minh Châu đã mô tả được tâm trạng hồi hộp, phân vân
một cách cụ thể hơn nhưng đây chỉ là số ít. Nhìn chung, tâm trạng của các
nhân vật được trổ tài hầu hết qua đối thoại và lời giới thiệu của tác giả. Các
nhân vật trong các truyện ngắn giai đoạn trước của Nguyễn Minh Châu có thể
nói là chưa được cá thể hoá về tâm trạng cũng như tính cách.
ở tập truyện Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu đã có những trang mô tả
sinh động hơn, mê hoặc hơn và cũng có vẻ đời thường hơn. Mô tả thiên
nhiên, nhà văn không chỉ thấy nét đẹp mà còn thấy cả cái hiu hắt, độc thân toát
lên từ những hình người bằng đá xen giữa những vạt cỏ lau (Cỏ lau), hay cái
hoang vu của một đêm đầy sao nhưng mặt đất vẫn tối thui (Phiên chợ
Bùi Thị Huyền – Lớp K29E Ngữ Văn
58