Kiến Thức Chung

Thiền sư vạn hạnh và bài thơ thị đệ tử

THIỀN sư vạn hạnh VÀ BÀI THƠ THỊ ĐỆ TỬ
Nguyễn Hữu Sơn | Viện Văn Học

sam set 2sam set 2Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi. Ông học thông tam giáo (Nho – Phật – Đạo), từng nhiệt thành giúp vua Lê Đại Hành chống ngoại xâm, dựng xây đất nước, sau lại khuông phò Lý Công Uẩn lên ngôi nên rất được kính trọng. Theo sách Thiền uyển tập anh (1337), ông còn để lại một số bài thơ, trong đó đặc biệt có bài Thị đệ tử (Bảo đệ tử) – nhan đề do người đời sau đặt. Sách Thiền uyển tập anh chép rõ: “Ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), sư không bệnh, gọi tăng chúng đến đọc bài kệ:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

          Dịch nghĩa:

Đời người như bóng chớp, có rồi không,
Vạn thứ cây mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo.
Đạt đến thông hiểu rồi thì sự thịnh suy không sợ hãi,
Thịnh suy chẳng qua như giọt sương treo đầu ngọn cỏ.

          Ngô Tất Tố dịch thơ:

Thân như bóng chớp, có rồi không,
Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.

Sư lại bảo các đệ tử: “Các ngươi muốn đi đâu? Ta không lấy chỗ trụ mà trụ, cũng chẳng dựa chỗ vô trụ mà trụ”… Một lát sau sư qua đời. Vua cùng các quan dân làm lễ hỏa táng, xây tháp chứa xá lỵ để đèn hương phụng thờ”…

Đến với bài thơ, trước hết cần đặt thi phẩm này trong toàn cảnh kiểu truyện tiểu sử  thiền sư, trong văn cảnh nhà sư làm ngay trước khi qua đời và tính chất một bài thơ – thi tụng – thơ Thiền – kệ thị tịch… Trên hết, đây là bài kệ do Vạn Hạnh đọc trước khi qui tịch và được Thiền sư giải thích rõ thêm về bản chất sự tồn tại cái bản ngã “không lấy chỗ trụ mà trụ”, “chẳng lấy chỗ vô trụ mà trụ”… Xét cho cùng, Phật giáo cũng chỉ là một cách nhìn, một cách hình dung về đời người và thế giới con người với tất cả những tham – sân – si – ái – ố – hỷ – nộ, bình đẳng cùng quan niệm và những cách giải thích khác nhau của tất cả các dòng phái triết học và tôn giáo khác trên cõi đời này.

Bài thơ mở đầu bằng sự khẳng định Thân như điện ảnh hữu hoàn vô (Đời người như bóng chớp, có rồi không). Dịch chữ THÂN là “đời người” cho dễ hiểu nhưng mới đúng theo lẽ phải thông thường mà chưa hẳn đã sát nghĩa. Trong bản chất, “thân” là biểu thị của thân nghiệp, sắc tướng, pháp tướng, hiển lộ bằng hình hài con người. Nhưng cái thân con người đã đến từ đâu, do đâu mà có và rồi sẽ đi về đâu? Khoa học hiện đại đã minh chứng thân xác con người chiếm khoảng 95% là nước (H20). Trước khi ra đời, con người có chín tháng mười ngày nằm trong bụng mẹ, trước đó là do những chủng tử gien XX (ở mẹ) và XY (ở cha) hợp thành. Trước nữa thì ở đâu? Chính là ở trong rau cỏ, nước, không khí hội hợp thành; rồi xa hơn nữa có cội nguồn từ ông bà, cụ kỵ, tổ tiên… Đứa bé được sinh ra với vài ba ký. Nó lớn lên bằng sữa mẹ. Rồi tập ăn sam, rồi nhờ gạo, khoai, sắn, mì tôm, cải bắp, su hào, rau muống, mồng tơi, rau đay… mà thành người lớn. Vậy bản quyền cái thân xác con người năm bảy chục ký với những nước là nước và cộng hưởng từ rau cỏ kia sẽ thuộc về đâu? Còn có cái “bản ngã” nào ẩn náu đằng những sau hợp chất thân xác của nước và rau cỏ kia?

Xem Thêm :  Cây đại phú gia có ý nghĩa gì? Vị trí đặt và cách chăm sóc tận nơi

Cái “thân” con người tồn tại trên cõi đời này chỉ như điệnvà ảnh, như ảnhcủa điện, như bóng chớp, hiện hữu rồi qua đi. Chữ điện ảnhđến nay vẫn được dùng để chỉ ngành nghệ thuật thứ bảy(gọi nôm na là chớp bóng, chiếu bóng, chiếu phim). Cái “thân” con người đang hữu (có) rồi tất yếu sẽ đến ngày trở về vô(không). Nhưng theo quan niệm của Phật giáo và theo Thiền sư Vạn Hạnh, cái “thân” con người không phải từ hữutuần tựđi đến vô mà là hoàn vô, trở về vô, về cõi hư vô – về với “Tây phương cực lạc”, “hạc giá vân du”, “thiên thu vĩnh quyết”…

Có thể hình dung cuộc sống đời người và sự tồn tại cái “thân” con người theo một sơ đồ đơn giản:

                   … … … A — — — B — — — C … … …

Muôn kiếp con người có tự cõi vô thủy vô chung, từ quá khứ vô cùng (α) cho đến thời khắc sinh ra ở điểm A, cứ cho là thượng thọ đến 80 tuổi, tồn tại trong 80 năm trên cõi đời yêu dấu, rồi tạ từ cuộc sống ở điểm C và lại được trở về với cõi vị lai – vô cùng – vô chung vô thủy (α). Thế là trọn vẹn một kiếp con người.

Đời người hữu sinh hữu tử, có sinh tất có tử. Thế thì sau khi hân hạnh được sinh ra làm kiếp con người, mỗi ngày ta sống đây cũng tức là đang mất đi, đang xa dần điểm A, tóc ngày một bạc phai, mắt ngày một mờ, chân ngày một chậm. Mỗi ngày ta sống đây tức là đang thêm một ngày tiến dần về điểm C, quĩ tháng năm dần thu hẹp, “miếng da bò” thời gian dần khép lại.

Xin

hình dung

tiếp, nếu một người hưởng thọ 80 tuổi, tương đương từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối, thế thì năm tròn 40 tuổi anh ta đã đứng bóng, chính Ngọ, đúng 12 giờ trưa. Còn sau đó là sang chiều, xế chiều, xế bóng.

Cảm giác

buổi chiều thường

hiu hắt

, bâng khuâng, qua nhanh hơn, thương hơn: 

Tà tà

bóng ngả về tây (Nguyễn Du), Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều (Xuân Diệu), Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng chiều (Tố Hữu)… Từ nay xin không ai nhắc đến tuổi, chỉ cần hỏi: “Thưa anh, mấy giờ rồi ạ?”.

Nên hiểu rằng

Phật giáo

Thiền sư Vạn Hạnh

thấu triệt

bản chất

giới hạn

sự

tồn tại

của thân kiếp

con người

nhưng

tuyệt nhiên

không

quan niệm

cuộc đời

hư vô

,

hư ảo

,

vô nghĩa

. Trong

thực chất

, việc

Thiền sư

nhấn mạnh

sự thật

 Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô (Vạn thứ cây

mùa xuân

tốt tươi,

mùa thu

khô héo) chính là nhằm chỉ rõ

chân lý

và qui luật

tồn tại

của

thế giới

hữu hình

muôn kiếp

chúng sinh

.

Đời người

có những tháng năm

tuổi trẻ

thì rồi sẽ đến ngày

già nua

, da mồi

tóc bạc

. Từ cuối chặng đường đời, chính Nguyễn Trãi cũng từng tiếc nuối “Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”và nhắc nhở kẻ

hậu sinh

: “Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc – Đầu bạc xưa rày có thuở xanh” (Thơ tiếc cảnh)…

Đời người

cũng như muôn vật, có doanh thì có hư, có trưởng thì có tiêu, có thừa thì có trừ, có thăng thì có giáng… Qui luật

đời người

là “sinh, lão, bệnh, tử”, điều gì đến sẽ đến, có gì mà lo sợ

Trước

thực tại

về cái hữu cái vô, cái còn cái mất, cái được cái không,

Thiền sư Vạn Hạnh

đề cao khả năng

nhận thức

và nắm bắt qui luật sự sống: 

Nhậm vận

thịnh suy

bố uý

 (

Đạt đến

thông hiểu

rồi thì sự

thịnh suy

không

sợ hãi

).

Con người

khi đã

đạt đến

trình độ

“nhậm vận” tức là đã đạt ngộ, đạt tới vô cầu vô kỷ, thấu suốt trước sau, không gì làm cho bất ngờ,

sợ hãi

. Người “nhậm vận”

hiểu rõ

thời vận

, qui luật

cuộc đời

và biết rõ ngay cả những

Xem Thêm :  1 cái bánh tráng nướng bao nhiêu calo? Ăn bánh tráng nướng có mập không?

thăng trầm

số phận cũng chính là một phần tất yếu của sự sống. 

Câu chuyện

Tái Ông thất mã không chỉ nói lên tính

tương đối

của sự

may rủi

mà còn đem đến một phương thức xử thế và niềm

an ủi

lớn lao.

Bản thân

sự thịnh – suy có thể là

hiện thực

tất yếu nhưng

thái độ

“thông hiểu”, chủ

động trước

thịnh – suy cũng giữ

vai trò

vô cùng

quan trọng. Do đó người “nhậm vận” thắng không kiêu, bại không nản, không nịnh trên, không nạt dưới. Bậc đạt đạo có thể vô bố úy, không sợ thịnh, không sợ suy,

tự chủ

được cả khi suy cũng như khi hưng thịnh. Ngược

trở lại

, người đời quá “sợ suy” mà chưa biết đến “sợ thịnh”! Trong Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều từng

cảnh tỉnh

: Bả

vinh hoa

lừa gã công khanh… Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!… Với

tinh thần

“nhậm vận”, dường như

Thiền sư Vạn Hạnh

đã cập bến bờ

giác ngộ

, vượt lên hai chiều suy – thịnh, thịnh – suy…

Đến câu kết 

Thịnh suy

như lộ thảo đầu phô (

Thịnh suy

chẳng qua như giọt sương treo đầu ngọn cỏ),

Thiền sư Vạn Hạnh

không chỉ

diễn giải

bản chất

thịnh suy

giống như giọt sương trên đầu ngọn cỏ mà còn đặt sự

thịnh suy

trong quá trình

biến đổi

, từ phía cuối

con đường

, phía bên kia

cuộc đời

, phía sau của

thực tại

hôm nay. Nói khác đi,

Thiền sư

đặt mình ở điểm nhìn

chung cuộc

,

kết cuộc

, đặt mình vào cõi

hư vô

mà soi nhìn lại

đời người

và tháng năm

quá khứ

. Tất

cả đời

người và sự

thịnh suy

đều như giọt sương, sẽ tan đi trên đầu ngọn cỏ, tan đi dưới ánh ban mai, tan

đi trước

thời gian

. Trong

cuộc đời

dài rộng chừng tám mươi năm,

con người

trải qua

biết bao những sự

thịnh suy

lớn nhỏ khác nhau. Sự thịnh – suy nho nhỏ thì như

một lần

bốc thăm được cái quạt thanh lý, hai lần thăng lương sớm, ba lần cảm gió, năm lần trượt xổ số hai trăm triệu,

một lần

mất xe máy…; sự thịnh – suy lớn thì như

một lần

lấy vợ,

một lần

xây nhà ba tầng,

một lần

ngoi lên chức phó tổng,

một lần

đi Pháp,

một lần

đạt

danh hiệu

chiến sĩ thi đua, v.v… Nhưng sự hưng thịnh nào rồi cũng qua, khó khăn nào rồi cũng qua,

nỗi buồn

nào rồi cũng dứt: Ai nắm tay được suốt ngày, Không ai giàu

ba họ

, không ai khó

ba đời

, Bảy mươi chửa què chớ khoe làm tốt, Cười người hôm trước hôm sau người cười… Nếu biết vậy? Thì chính

Thiền sư Vạn Hạnh

đã

tổng kết

, chỉ rõ cái kết cục tất yếu để mỗi

con người

an nhiên

hơn trước mọi sự

thịnh suy

trong hôm nay để đến ngày mai không bao giờ phải

ân hận

, tiếc nuối.

Theo

Thiền sư Vạn Hạnh

, khi còn có tấm thân và được làm một bóng chớp, làm một giọt sương treo trên đầu ngọn cỏ giữa cõi đời này,

con người

cần phải

biết quí từng phút từng giây.

Thời gian

rồi sẽ qua đi,

đối diện

với mọi lẽ

thịnh suy

,

con người

càng cần biết làm chủ chính mình,

đạt đến

“nhậm vận”,

an nhiên

tự tại

trước mọi

thăng trầm

thế sự

. Sống một ngày là lãi một ngày. Sống một ngày là thêm niềm vui và

hạnh phúc

. Có thể đó là

thông điệp

Thiền sư Vạn Hạnh

gửi đến mọi

chúng sinh

trên cõi đời này…

Xintiếp, nếu một người hưởng thọ 80 tuổi, tương đương từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối, thế thì năm tròn 40 tuổi anh ta đã đứng bóng, chính Ngọ, đúng 12 giờ trưa. Còn sau đó là sang chiều, xế chiều, xế bóng.buổi chiều thường, bâng khuâng, qua nhanh hơn, thương hơn:bóng ngả về tây (Nguyễn Du), Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều (Xuân Diệu), Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng chiều (Tố Hữu)… Từ nay xin không ai nhắc đến tuổi, chỉ cần hỏi: “Thưa anh, mấy giờ rồi ạ?”.Nên hiểu rằngvàsựcủa thân kiếpnhưngkhônglà. Trong, việcVạn mộc xuân vinh thu hựu khô (Vạn thứ câytốt tươi,khô héo) chính là nhằm chỉ rõvà qui luậtcủamuôn kiếpcó những tháng nămthì rồi sẽ đến ngày, da mồi. Từ cuối chặng đường đời, chính Nguyễn Trãi cũng từng tiếc nuối “Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”và nhắc nhở kẻ: “Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc – Đầu bạc xưa rày có thuở xanh” (Thơ tiếc cảnh)…cũng như muôn vật, có doanh thì có hư, có trưởng thì có tiêu, có thừa thì có trừ, có thăng thì có giáng… Qui luậtlà “sinh, lão, bệnh, tử”, điều gì đến sẽ đến, có gì mà lo sợTrướcvề cái hữu cái vô, cái còn cái mất, cái được cái không,đề cao khả năngvà nắm bắt qui luật sự sống:vôrồi thì sựkhông).khi đã”nhậm vận” tức là đã đạt ngộ, đạt tới vô cầu vô kỷ, thấu suốt trước sau, không gì làm cho bất ngờ,. Người “nhậm vận”, qui luậtvà biết rõ ngay cả nhữngsố phận cũng chính là một phần tất yếu của sự sống.Tái Ông thất mã không chỉ nói lên tínhcủa sựmà còn đem đến một phương thức xử thế và niềmlớn lao.sự thịnh – suy có thể làtất yếu nhưng”thông hiểu”, chủthịnh – suy cũng giữquan trọng. Do đó người “nhậm vận” thắng không kiêu, bại không nản, không nịnh trên, không nạt dưới. Bậc đạt đạo có thể vô bố úy, không sợ thịnh, không sợ suy,được cả khi suy cũng như khi hưng thịnh. Ngược, người đời quá “sợ suy” mà chưa biết đến “sợ thịnh”! Trong Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều từng: Bảlừa gã công khanh… Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!… Với”nhậm vận”, dường nhưđã cập bến bờ, vượt lên hai chiều suy – thịnh, thịnh – suy…Đến câu kếtnhư lộ thảo đầu phô (chẳng qua như giọt sương treo đầu ngọn cỏ),không chỉgiống như giọt sương trên đầu ngọn cỏ mà còn đặt sựtrong quá trình, từ phía cuối, phía bên kia, phía sau củahôm nay. Nói khác đi,đặt mình ở điểm nhìn, đặt mình vào cõimà soi nhìn lạivà tháng năm. Tấtngười và sựđều như giọt sương, sẽ tan đi trên đầu ngọn cỏ, tan đi dưới ánh ban mai, tan. Trongdài rộng chừng tám mươi năm,biết bao những sựlớn nhỏ khác nhau. Sự thịnh – suy nho nhỏ thì nhưbốc thăm được cái quạt thanh lý, hai lần thăng lương sớm, ba lần cảm gió, năm lần trượt xổ số hai trăm triệu,mất xe máy…; sự thịnh – suy lớn thì nhưlấy vợ,xây nhà ba tầng,ngoi lên chức phó tổng,đi Pháp,đạtchiến sĩ thi đua, v.v… Nhưng sự hưng thịnh nào rồi cũng qua, khó khăn nào rồi cũng qua,nào rồi cũng dứt: Ai nắm tay được suốt ngày, Không ai giàu, không ai khó, Bảy mươi chửa què chớ khoe làm tốt, Cười người hôm trước hôm sau người cười… Nếu biết vậy? Thì chínhđã, chỉ rõ cái kết cục tất yếu để mỗihơn trước mọi sựtrong hôm nay để đến ngày mai không bao giờ phải, tiếc nuối.Theo, khi còn có tấm thân và được làm một bóng chớp, làm một giọt sương treo trên đầu ngọn cỏ giữa cõi đời này,biết quí từng phút từng giây.rồi sẽ qua đi,với mọi lẽcàng cần biết làm chủ chính mình,”nhậm vận”,trước mọi. Sống một ngày là lãi một ngày. Sống một ngày là thêm niềm vui và. Có thể đó làgửi đến mọitrên cõi đời này…

Xem Thêm :  Tuyển tập các bức tranh tô màu cái bát, cái tô cho bé tô màu

Hà Nội, 1990-2008

Nguyễn Hữu Sơn
Viện Văn học
20 Lý Thái Tổ, Hà Nội.
ĐT: 0913031635


Tiểu sử Thiền Sư Vạn Hạnh | Tài Tiên Tri Xuất Chúng Giúp Lý Công Uẩn Lên Ngôi, Thắng Tống Bình Chiêm


Tiểu sử Thiền Sư Vạn Hạnh | Tài Tiên Tri Xuất Chúng Giúp Lý Công Uẩn Lên Ngôi, Thắng Tống Bình Chiêm
Nước Việt ta, sử sách nhắc đến và ca ngợi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 1585) như một nhà tiên tri xuất chúng mà tài dự đoán của ông được tạo thành những giai thoại li kỳ. Nhưng, tài tiên tri ấy, trước Trạng Trình khoảng 4 thế kỷ, cũng đã có một người xuất chúng không kém: Thiền sư Vạn Hạnh (938 1025).

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung

Related Articles

Back to top button