Kiến Thức Chung

PHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý TRONG VĂN NGHỊ LUẬN

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

Thông tin tài liệu

Ngày đăng: 01/07/2014, 21:00

PHÂN TÍCH ĐỀ, Phân tích đề, tìm hiểu đề: – Đọc kĩ đề, chú ý từng từ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ nhữ, nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn của câu, đoạn. Chia vế, ngăn đoạn, tìm hiểu mối tương quan giữa các vế: song song, chính phụ, nhân quả, tăng tiến, đối lập – Nhiệm vụ của phân tích đề là phải xác nhận cho được ba yêu cầu sau đây: * Vấn đề cần nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý cần triển khai? Mối quan hệ giữa các ý như vậy nào? * Sử dụng thao tác lập luận gì là chính? Đề học sinh giỏi thường yêu cầu sử dụng tổng hợp các thao tác, nhưng còn tùy thuộc vào ngành nghề tri thức mà thiên về thao tác nào là chính. Nếu liên quan đến tác phẩm thì thiết yếu phân tích – chứng minh, nếu liên quan đến lí luận văn học thì thiết yếu giải thích – bình luận * Vùng tư liệu được sử dụng cho nội dung: tác gia, trào lưu, giai đoạn, thời kỳ văn học; trong nước hay toàn cầu. Đây là nhiệm vụ trước nhất trước khi làm bài có ý nghĩa quyết định đến chất lượng nội dung, thế nhưng nhiều h.s. chưa ý thức được vai trò của khâu tìm hiểu đề này. Đôi lúc h.s. có đầu tư đúng mức nhưng vẫn không xác nhận đủ và đúng yêu cầu của đề ra. Bởi lẽ, ở dạng đề tường minh các em thường có tâm lý chủ quan dẫn đến hiểu chưa đầy đủ yêu cầu và định hướng của đề bài, còn có nguyên nhân là tri thức nền tảng chưa vững chắc dẫn đến việc tổ chức lập luận còn lỏng lẽo, thiếu ý, thừa ý; ở dạng đề hàm ẩn nếu thiếu đầu tư suy nghĩ thì việc xác nhận luận đề rất khó khăn, nếu không cẩn trọng sẽ dẫn đến tình trạng chệch hướng, thậm chí lạc đề. Vậy không nên phỏng đoán rồi viết ẩu. Cần phải đầu tư thích đáng cho khâu này. Dạng đề hàm ẩn thường liên quan đến vấn đề lý luận, đương nhiên trên nền tảng phân tích những tác phẩm cụ thể. Nếu đề có cách nói bóng bẩy thì phải xem xét nó thuộc ngành nghề tri thức nào của lý luận văn học. Chung qui lại vẫn là phạm vi tri thức mà ta đã học. Ví dụ đề bài năm 1997- bảng B: “Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người”. Hãy bình luận ý kiến trên. Đề này đề cập đến tính năng giáo dục của văn học. Trên nền tảng hiểu biết về nhà cung cấp tri thức trên mà tổ chức lập luận. B. Lập dàn ý Sau khoảng thời gian xác nhận được nội dung luận đề phải tổ chức lập luận, lập được dàn bài hợp lý là thỏa mãn yêu cầu của đề bài. Khâu này tùy thuộc rất lớn vào kết quả phân tích đề. Nếu phân tích đề sai một ly thì dàn bài sẽ đi một dặm. Ít nhất là các em phải vạch ra được những ý lớn, những luận điểm chính, trên nền tảng đó từng ý lớn phải cụ thể hóa thành nhiều ý nhỏ, thậm chí mỗi ý nhỏ nếu cần thì cụ thể hóa thành nhiều ý nhỏ hơn còn gọi là khía cạnh của ý nhỏ. I. Tác dụng của vệc lập dàn ý: – Lập dàn ý giúp cho người viết lựa chọn, sắp xếp ý thành một hệ thống chặt chẽ và bao quát được nội dung cơ bản, nhờ đó mà tránh tình trạng lạc đề hoặc lặp ý, tránh được việc bỏ sót ý hoặc triển khai ý không tương xứng. – Có dàn ý người viết sẽ phân phối thời gian hợp lý khi viết bài II. Nền tảng lập ý Có hai nền tảng để xác lập ý: – Trường hợp đề bài có nhiều ý thì dựa vào chỉ dẫn của đề nhưng phải xác nhận mối quan hệ giữa các ý, nhất là quan hệ chính phụ, không nên nhầm lẫn ý chính với ý phụ. Thường thì những đề này chỉ chứa những ý chính. Ví dụ đề bài: Nguyễn Văn Siêu có viết: ” Văn chương ( ) có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người” Hãy bình luận ý kiến trên. Đề có hai ý tương đối rõ ràng. – Trường hợp đề bài chỉ có một ý. Đây là dạng thông dụng thường gặp ở những kỳ thi h.s. giỏi. Vậy thì căn cứ vào đâu để xây dựng được hệ thống lập luận gồm những ý lớn ý nhỏ? Hoàn toàn phụ thuộc vào vốn tri thức của bạn! Nếu có chút lúng túng thì hãy chú ý đến nội hàm của khái niệm (nếu có) hoặc hiểu cái ý ngầm đằng sau những lời văn là gì III. Cách luận điểm (ý lớn). – Đề bài có nhiều ý thì ứng với mỗi ý là một luận điểm. – Đề bài có một ý, thì ý nhỏ hơn cụ thể hoá ý đó được xem là những luận điểm. Nội dung tri thức này ở trong bài học, tư liệu hoặc vốn tự có. 2. Tìm luận cứ ( ý nhỏ) cho các luận điểm. Mỗi luận điểm cần cụ thể hoá thành nhiều ý nhỏ hơn gọi là luận cứ. Số lượng ý nhỏ và cách triển khai tuỳ thuộc vào ý lớn. Ý nhỏ có khi được gợi từ đề bài nhưng phần lớn là từ tri thức của bản thân. 3. Lập dàn ý ba phần: a. Mở bài: Giới thiệu luận đề b. Thân bài: Triển khai nội dung theo hệ thống các ý lớn, ý nhỏ đã tìm. c. Kết bài: Tổng kết nội dung trình bày, liên hệ mở rộng, nâng cao vấn đề. Ví dụ đề bài năm 1997- bảng B: “Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người”. Hãy bình luận ý kiến trên. Đề này đề cập đến tính năng giáo dục của văn học. Trên nền tảng hiểu biết về nhà cung cấp tri thức trên mà tổ chức lập luận. – Nói văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người là nói đến ý nghĩa thúc đẩy tích cực của văn học so với người đọc, làm cho họ tốt hơn lên, biết sống nhân ái, nhân đạo. Khi đã nắm chắc nôi dung luận đề thì tiến hành xác lập ý lớn. Đề trên có thể triển khai thành những luận điểm như sau: 1.Vì sao văn học lại có nhiệm vụ nhân đạo hóa? Do ý đồ sáng tạo của nhà văn, là tính năng cao thượng của văn học. 2.Văn học thực hiện nhiệm vụ nhân đạo hóa bằng cách nào? – Tranh đấu vì một xã hội công bằng tốt đẹp. – Giúp con người tự nhận thức, tự hoàn thiện đạo đức tư cách, tự chọn lối sống lối sống đẹp nhân ái. – Đôi lúc văn học giúp con người có lối sống nhân đạo bằng lời đề nghị trực tiếp. 3. Có phải chỉ có văn học mới có tính năng giáo dục con người hay không? Gia đình, nhà trường, xã hội! Môn Giáo dục công dân v.v Vậy đặc thù của văn học là gì? 4. Ý nghĩa vấn đề: So với nhà văn. So với độc giả. CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN A. Khái niệm Thao tác được dùng để chỉ việc thực hiện những động tác theo trình tự và yêu cầu kỹ thuật nhất định. Thao tác lập luận là quá trình triển khai lí lẽ một cách lô gic nhằm phát hiện thêm một chân lí mới từ chân lí đã có. Phân biệt thao tác lập luận với các khái niệm khác: – Yếu tố lập luận: lí lẽ, chứng cứ, kết luận – Cách triển khai lập luận: diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, nêu phản đề, so sánh, vấn đáp, phân tích nhân quả. – Phương tiện miêu tả trong lập luận: mô tả, tự sự, thuyết minh B. Các thao tác lập luận I. Giải thích 1. Khái niệm: GT là vận dụng tri thức để hiểu vấn đề nghị luận một cách rõ ràng và giúp người khác hiểu đúng ý của mình. Ví dụ 1: Chất thơ trong văn là gì? Trả lời: Chất thơ còn gọi là chất trữ tình trong văn xuôi là chỉ thứ ngôn ngữ bóng bẩy, giàu xúc cảm và có tính nhạc trong lời văn, nhiều từ ngữ gợi chứ không tả. Đoạn văn mở màn truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là khá tiêu biểu Ví dụ 2: Giải thích câu thơ sau: Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đớn đau lòng (ND – TK) Trả lời: Đây là câu thơ thứ 3 và 4 của Truyện Kiều. Câu thơ trổ tài sự chiêm nghiệm phổ quát của đại thi hào về cõi nhân sinh: chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Cuộc bể dâu là những đổi thay to lớn ngạc nhiên ngoài sự toan tính và mong muốn của con người, gây ra nhiều nỗi đau thương. Trong cuộc vần xoay đó làm bật lên những thân phận xấu số khiến ND vô cùng thương xót, bất bình. Chinh phụ ngâm cũng có ý thơ hầu hết vậy: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi / Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. 2. Cách làm: – Giải thích nền tảng: Giải thích từ ngữ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ – Trên nền tảng đó giải thích toàn bộ vấn đề, chú ý nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn Ví dụ: Sự trong sáng của ngôn ngữ là kết quả của một cuộc phấn đấu. Trong và sáng dính liền nhau. Tuy nhiên, cũng có thể phân tích ra để cho được rõ nghĩa hơn nữa. Theo tôi nghĩ, sáng là thanh tao, dễ hiểu, khái niệm được rõ ràng; thường thường khái niệm, nhận thức, suy nghĩ được rõ ràng thì lời miêu tả ra cũng được sáng tỏ. Tuy nhiên, nhất là trong thơ, có rất nhiều trường hợp ý nghĩa sáng rồi, dễ hiểu rồi, nhưng lời miêu tả còn thô, chưa được trong, chưa được gọn, chưa được chuốt. Do đó tôi muốn hiểu chữ sáng là nặng về nói nội dung, nói tư duy, và chữ trong là nặng nói về hình thức, nói miêu tả (và cố nhiên là nội dung và hình thức gắn liền). Do vậy phải phấn đấu cho được sáng nghĩa, đồng thời lại phải phấn đấu cho được trong lời, đặng cho câu thơ, câu văn trong sáng (Xuân Diệu) II. Phân tích 1. Khái niệm Phân tích là chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành nhiều phòng ban, yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong của đối tượng. Đối tượng phân tích trong bộ môn văn học: một nhận định, văn bản, tác phẩm, một phần tác phẩm, nhân vật, các yếu tố cụ thể… Tác dụng của phân tích là thấy được giá trị ý nghĩa của sự vật hiện tượng, mối quan hệ giữa hình thức với bản chất, nội dung. Phân tích giúp nhận thức đầy đủ, sâu sắc cái giá trị hoặc cái phi giá trị của đối tượng. Riêng so với tác phẩm văn học, phân tích là để tìm hiểu ba giá trị của văn học: nhận thức, tư tưởng và thẩm mĩ. Yêu cầu phân tích: phải nắm vững dấu hiệu cấu trúc của đối tượng để chia tách một cách hợp lí. Sau khoảng thời gian phân tích tìm hiểu từng phòng ban, cụ thể phải tổng hợp tổng quan lại để nhận thức đối tượng đầy đủ, sâu sắc và trình bày ngắn gọn. 2. Cách phân tích – Tìm hiểu tính năng dấu hiệu của các cụ thể Ví dụ 1: Trời thu xanh ngắt mấy từng cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. (Nguyễn Khuyến) Từ xanh ngắt gợi tả không gian trời thu cao xanh vời vợi, nền trời là một màu xanh ngăn ngắt. Màu xanh này gợi tả được cảnh trong veo và thật im vắng, yên tĩnh. Cụm từ mấy từng cao đã diễn tả không gian sâu thẳm vô cùng. Trên nền không gian bạt ngàn ấy, tác giả điểm xuyết một cành trúc. Từ láy lơ phơ giàu sức tạo hình, gợi tả cành trúc khẳng khiu, thanh mảnh, nhẹ nhõm, thưa thớt lá, đang đong mang trong làn gió nhẹ của chiều thu. Nhờ cần trúc với dáng nét lơ phơ mà cảnh thu có vẻ đẹp duyên dáng thơ mộng, thanh thoát. Ví dụ 2: Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc lơ lửng, trữ tình: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương – Hình ảnh thơ chân thực, không gian thân thiện nhưng nhờ cách lựa chọn thời gian nên đã gợi tả được phong cảnh tuyệt vời. Đó là thời điểm ngày đã hết, nắng chiều đã lưng nương nhưng lần lữa như không muốn đi. Bóng hoàng hôn còn lưu luyến thì trăng đã nhô lên, đổ ánh sáng dịu dàng. Do đó cảnh thung lũng có sự giao hòa ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, thứ ánh sáng dịu dàng, trong trẻo của trăng hoà với ánh sáng êm ả của hoàng hôn tạo ra một vừng sáng diệu kì như thực, như mơ. Chớp lấy khoảnh khắc lạ lùng, Tố Hữu đã mang đến cho thiên nhiên Việt Bắc một vẻ đẹp đơn sơ, mộng mơ làm say đắm lòng người. – Dùng phép liên tưởng để mở rộng nội dung ý nghĩa Ví dụ: THoài giới thiệu nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ: – Trước nhà thống lí Pá Tra, người ta lúc nào cũng thấy Mị ngồi quay sợi bên tảng đá cạnh tàu ngựa. – Lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. > Vị trí ngồi ấy cho thấy cuộc sống Mị như bị thít chặt trong kiếp ngựa trâu và khuôn mặt lột tả cõi lòng luôn mang nỗi đau buồn thầm lặng dai dẳng, triền miên. Nỗi buồn đông cứng như tảng đá vô tri và đè nặng lên đôi vai, lên cuộc sống Mị. Tác giả đã trổ tài nỗi buồn của Mị với giọng văn ngậm ngùi và chiều sâu cảm thông hiếm thấy. Đoạn văn mở màn giúp người đọc nhìn thấy cảnh đời bi thương của nhân vật Mị. III. Minh chứng 1. Khái niệm: CM là mang ra những cứ liệu – dẫn chứng xác đáng để làm sáng tỏ một lí lẽ một ý kiến để thuyết phục người đọc người nghe tin tưởng vào vấn đề. 2. Cách làm – Mang lí lẽ trước – Chọn dẫn chứng và mang dẫn chứng. Thiết yếu phải phân tích dẫn chứng để lập luận CM thuyết phục hơn. Đôi lúc thuyết minh trước rồi trích dẫn chứng sau. Ví dụ: Cảm xúc lãng mạn trong văn học giai đoạn 1945 – 1975 a. Cảm xúc lãng mạn được trổ tài trong tác phẩm như vậy nào? (Giải thích) – Tác phẩm thiên về truyền tụng lí tưởng, truyền tụng sự tốt đẹp của cuộc sống, thi vị hoá hiện thực. – Trổ tài những khát vọng hoài bão to lớn, niềm tin vào tương lai tươi sáng của quốc gia b. Một số dấu hiệu của cảm xúc lãng mạn (Minh chứng) * – Thơ ca truyền tụng sự tốt đẹp của cuộc sống hiện tại: Tổ quốc khi nào đẹp thế này chăng? – Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc, Nguyễn Du viết Kiều quốc gia hoá thành văn, Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc, Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng (Chế Lan Viên) Chỉ nhìn vào mặt tốt đẹp để truyền tụng, chưa nói được cái hiện thực còn ngổn ngang khó khăn nên nhiều tác phẩm mang cảm xúc lãng mạn như vậy. – Hiện thực khổ sở, thiếu thốn, mất mát hi sinh được thi vị hoá: + Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng Những chàng trai chưa trắng nợ người hùng Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa. (Chính Hữu – Đường về) + Đường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây. (Phạm Tiến Duật) – Quang Dũng đã lãng mạn hoá phẩm chất người hùng của người chiến sĩ: Rải rác biên thuỳ mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. – Bức tranh thiên nhiên trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu được nhìn qua ánh nhìn mơ mộng của Lãm nên có vẻ đẹp thi vị, lãng mạn, cất cánh bổng. * – Cuối tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là hình ảnh: cánh rừng xà nu bạt ngàn, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp đó chân trời. > Sức sống của thiên nhiên ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của cả dân tộc. Nó là nền tảng cho niềm tin tất thắng ở tương lai. Cảm xúc lãng mạn có thể bắt gặp ở hầu hết các tác phẩm trong thời kì văn học này. – Biết đánh Pháp lúc đầu như “châu chấu đá xe” nhưng lãnh tụ hoàn toàn tin tưởng vào ngày mai: Kháng chiến thành công ta trở lại Trăng xưa hạc cũ với xuân này. (Cảnh rừng Việt Bắc) – Lên đường nhập ngũ, anh bộ đội mang theo niềm hi vọng lớn: Cây si xanh gọi họ đến ngồi Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai. Ngày mai sẽ là ngày sum họp Đã toả sáng. Những tâm hồn cao đẹp! (Nguyễn Mỹ) Sỡ dĩ văn chương thời kì này giàu vẻ đẹp lãng mạn là vì hiện thực cách mạng có nhiều khổ sở, thiếu thốn, hi sinh nhưng cũng có nhiều vẻ đẹp, nhiều niềm vui và gợi nhiều mong ước về tương lai. IV. Bình luận 1. Khái niệm: Bình luận là luận bàn nhận xét vấn đề, sự việc, hiện tượng… đúng hay sai, hay / dở; tốt / xấu, lợi / hại…; để nhận thức đối tượng, cách ứng xử phù hợp và có phương châm hành động đúng. – Yêu cầu của việc nhận xét là sát đối tượng, nhìn nhận vấn đề toàn diện, khách quan và phải có lập trường tư tưởng đúng đắn, rõ ràng. 2. Cách làm: BL luôn có hai phần: – Mang ra những nhận định về đối tượng nghị luận. Thông thường, những nhận định được rút ra từ kết quả phân tích – Trên nền tảng của những nhận định, người viết nhận xét vấn đề Muốn nhận xét vấn đề một cách thuyết phục thì phải có lập trường đúng đắn và nhất thiết phải có tiêu chuẩn. Trong văn NL xã hội, thì dựa vào lập trường nhân dân và tiêu chuẩn đạo lí Trong văn NL văn học, thì dựa vào lập trường nhân dân, quyền con người và tiêu chí là tính khách quan của đời sống,sự tiến bộ của văn học, so với tác phẩm cụ thể thi tiêu chuẩn là giá trị nhận thức, giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mĩ. Ví dụ: Bình luận về sự đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu so với văn học dân tộc qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc? Trả lời: – Lần trước nhất người nông dân đi vào văn học với vẻ tự nhiên vốn có về cuộc sống, đức tính. – Lần trước nhất NĐC thấy được nông dân là chủ nhân thật sự của quốc gia, trong khi triều đình Nguyễn lúng túng, nhu nhược trước ngoại xâm thì nông dân đã tự giác đứng lên đánh giặc để bảo vệ quê hương lãnh thổ. – Bài văn được viết bằng chữ Nôm, ngôn ngữ mộc mạc nhưng có sức gợi hình gợi cảm lớn, đặc biệt đoạn văn dựng lại cảnh chiến tranh rất hoành tráng, có không khí và màu sắc sử thi, vượt qua hạn chế của bài văn tế thông thường. – Bài văn khắc họa được hình tượng con người VN tiêu biểu về phẩm chất yêu nước và người hùng, trổ tài trí não quật cường và lẽ sống vì nước quên mình mang tính truyền thống của dân tộc VN. – Bài văný nghĩa cỗ vũ trí não kháng chiến mạnh mẽ ngay từ lúc nó ra đời. V. So sánh 1. Khái niệm: So sánh là một thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật, đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật để nêu ra những nét giống nhau hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của từng sự vật hoặc một sự vật mà mình quan tâm. Hai sự vật cùng loại có nhiều điểm giống nhau thì gọi là so sánh tương đồng, có nhiều điểm đối chọi nhau thì gọi là so sánh tương phản. Tác dụng của so sánh là nhằm nhận thức nhanh chóng dấu hiệu nổi trội của đối tượng và song song hiểu hiểu rằng hai hay nhiều đối tượng. 2. Cách làm – Trước hết là cần xác nhận đối tượng nghị luận từ đó tìm một đối tượng tương đồng hay tương phản, hoặc cần so sánh hai đối tượng song song – Nêu ra những điểm giống nhau giữa các đối tượng. – Dựa vào nội dung cần tìm hiểu, nêu ra điểm nổi bật giữa các đối tượng. – Xác nhận giá trị cụ thể của các đối tượng. Ví dụ 1: So sánh nghị luận về tư tưởng đạo lí và nghị luận về hiện tượng đời sống và cách làm bài. Nghị luận về tư tưởng đạo lí và nghị luận về hiện tượng đời sống là hai dạng đề cụ thể của nghị luận xã hội. Nghĩa là, luận bàn để hiểu một cách thấu đáo cũng như vận dụng vấn đề nghị luận vào đời sống và bản thân.Vấn đề đạo lí có tính chất truyền thống nhằm tập luyện đạo đức tư cách. Vấn đề hiện tượng đời sống mang tính thời sự nóng hổi nhằm mục đich tập luyện ý thức công dân. Đối tượng nghị luận có khác nhau nhưng cách làm bài giống nhau Phần mở bài ta nên tìm hiểu và nói rõ nguyên nhân vì sao xuất hiện vấn đề trên và giới thiệu đề bài Phần thân bài ta làm lần lượt các ý sau 1. Giải thích cụ thể và tổng quát vấn đề nghị luận 2. Mang dẫn chứng cụ thể đồng thời phân tích để thấy việc đúng / sai của vấn đề. Nhận đinh tổng quan việc đúng / sai, hoặc nửa đúng nửa sai của vấn đề. Khi lấy dẫn chứng bạn cần phải có phương pháp và tránh hiện tượng lấy quá nhiều hoặc quá ít dẫn chứng. 3. Thảo luận mở rộng vấn đề: chúng ta nên tìm hiểu các khía cạnh còn lại của vấn đề; lật ngược vấn đề để hiểu chắc nịch hơn và tìm hiểu tác dụng, ý nghĩa của vấn đề đối với bản thân và đời sống Phần kết bài nên nhấn mạnh lần nữa giá trị của vấn đề. Ví dụ 2: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa”… Nguyễn Du, Bạch Cư Dị so tiếng đàn với tiếng suối. Thế Lữ lại so tiếng hát trong với nước ngọc tuyền (suối ngọc). Những người này không mô tả trực tiếp tiếng suối. Chỉ có Nguyễn Trãi cho tiếng suối là tiếng đàn cầm. Có vẻ đó là hình ảnh gần nhất với hình ảnh trong câu thơ này. Có thể chẳng phải ngẫu nhiên. Nguyễn Trãi sành âm nhạc. Bác Hồ cũng thích âm nhạc. Tiếng hát của một danh ca Pháp từng thích nghe thời trẻ, đến tuổi bảy mươi Bác còn nhờ chị Mađơlen Rípphô tìm lại hộ. Tiếng suối ngàn của quốc gia hay đó là tiếng hát của trái tim người nghệ sĩ yêu đời. (Lê Trí Viễn) VI. Bác bỏ 1. Khái niệm: Bác bỏ là nêu ra ý kiến sai trái của vấn đề trên nền tảng đó mang ra nhận định đúng đắn và bảo vệ ý kiến lập trường đúng đắn của mình. 2. Yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ – Muốn bác bỏ một ý kiến sai thì phải dẫn đầy đủ ý kiến đó. Sau đó làm sáng tỏ hai phương diện: sai ở nơi đâu và vì sao như vậy là sai. Trả lời vì sao như vậy là sai, đó chính là thao tác lập luận bác bỏ. – Để nhất định ý kiến sai cần xem xét ba yếu tố: luận điểm, luận cứ, luận chứng. – Bác bỏ ý kiến sai là dùng lý lẽ và dẫn chứng để phân tích, lí giải vì sao như vậy là sai. * Lưu ý: Trong thực tiễn, một vấn đề nhiều khi có mặt đúng, mặt sai. Vì vậy, khi bác bỏ hoặc nhất định cần xem xét, phân tích từng mặt để tránh tình trạng khẳng định chung chung hay bác bỏ, phủ nhận toàn bộ. 3. Cách sử dụng Bác bỏ một ý kiến sai có thể thực hiện bằng nhiều cách: bác bỏ luận điểm, bác bỏ luận cứ, bác bỏ cách lập luận hoặc phối hợp cả ba cách. a. Bác bỏ luận điểm: thông thường có hai cách bác bỏ – Dùng thực tiễn để bác bỏ: Nếu luận điểm đi trái lại với thực tiễn thì ta dùng thực tế để bác bỏ. – Dùng phép suy luận: Từ thực tiễn, ta có thể thêm suy luận để cái sai ấy bộc lộ rõ hơn. b. Bác bỏ luận cứ: Là vạch ra tính chất sai lầm, giả tạo trong lý lẽ và dẫn chứng được sử dụng. c. Bác bỏ lập luận: Là vạch ra sự tranh chấp, không nhất quán, phi lôgíc trong lập luận của đối phương. * Lưu ý: Mục đích của bác bỏ là bảo vệ chân lí, xác nhận sự thật. Nếu xa rời mục đích chân lí thì sự bác bỏ trở thành nguỵ biện, vô dụng và có hại. Nội dung có bố cục như sau: Đoạn 1: Xác nhận luận điểm cần bác bỏ. Đoạn 2: Phân tích để thấy rõ thực chất của luận điểm. Đoạn 3: Dùng luận cứ để bác bỏ luận điểm. Ví dụ: a. Nhất Chi Mai (Nhất Linh) phê bình Vũ Trọng Phụng, năm 1937. Đọc xong một đoạn văn, tôi thấy trong lòng phẫn uất, khó chịu, tức tối. Không phải phẫn uất, khó chịu cái vết thương xã hội tả trong câu văn, mà chính là vì cảm thấy tư tưởng hắc ám, căm hờn nhỏ nhen ẩn trong đó. Đọc vănTrọng Phụng, thực không khi nào tôi thấy một tia kì vọng, một tư tưởng tuyệt vọng. Đọc xong ta tưởng nhân gian là một nơi địa ngục và xung quanh mình toàn là những kẻ giết người, làm đĩ, ăn tục, nói càn, một toàn cầu khốn nạn vô cùng. Phải chăng đó là tấm gương phản chiếu tính tình, lí tưởng của nhà văn, một nhà văn nhìn toàn cầu qua cặp mắt kính đen và một cội nguồn văn cũng đen nữa. b. Vũ Trọng Phụng đã phản bác lại cùng năm đó, 1937. Khi dùng một từ dơ dáy tôi chẳng thấy khoái trá như khi các ông tìm được một kiểu áo phụ nữ mới mẻ, những lúc ấy, tôi chỉ thương hại cái nhân loại ô uế bẩn thỉu, nó bắt tôi phải viết như vậy, và nó bắt các ông phải chạy xa sự thực bằng những danh từ điêu trá của văn chương. Các ông quen nhìn một cô gái nhảy là một phụ nữ tân thời, vui vẻ trẻ trung, hi sinh cho tình yêu hoặc cách mạng lại gia đình. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một người đàn bà vô học, chẳng có thị vị, lại hư hỏng, lại bất hiếu bất mục nữa, lại có nhiều vi trùng trong người nữa. Tôi không biết gọi gái đĩ là nàng – chữ ấy nó thi vị lắm – hoặc tô điểm cho gái đĩ ấy những cái thi vị mà gái đĩ ấy không có, đến nỗi đọc xong truyện người ta chỉ thấy một gái đĩ làm gương cho thế gian noi theo! Đó, thưa các ông, cái chỗ bất đồng ý kiến giữa tất cả chúng ta! Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời Hắc ám, có! Vì tôi vốn là người bị quan, căm hờn cũng có, vì tôi cho rằng cái xã hội nước nhà mà lại không đáng căm hờn, mà lại cứ “vui trẻ trung”, trưởng giả, ăn mặc tân thời, khiêu vũ v.v như các ông chủ trương thì một là không muốn cải cách gì xã hội, hai là ích kỉ một cách đáng sỉ nhục. Còn bảo nhỏ nhen thì thì thế nào? Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những sự thống khổ của nhân dân nghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị cưỡng bức, muốn cho xã hội công bình hơn nữa, đừng có chuyện ô uế, dâm đãng, mà bảo là nhỏ nhen, thì há dễ Zôla (Dôla), Hugo (Huygô), Mabraux (Mabrô), Dostoievski (Đôtstôiepski), Maxime Gorki (Maxim Gorki) lại không cũng là nhỏ nhen? Nếu các ông không muốn sờ lên gáy thì thôi, bao nhiêu chuyện thanh cao, thanh lịch, cao thượng của loài người xin các ông cố mà hương hoa khấn khứa. Tôi xin để cái phần ấy cho các ông. Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy khốn nạn, quan tham lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt, mà cái xa hoa chơi bời của bọn giàu thì thật là những câu chửi rủa vào cái xã hội dân quê, thợ thuyền bị lầm than, bị bóc lột. Lạc quan được cho đời là vui, là không cần cải cách, cho cái xã hội này là hay ho tốt đẹp, rồi ngồi mà đánh phấn bôi môi hình quả tim để đi đua ngựa, chợ phiên, khiêu vũ, theo ý tôi, thế là giả dối, là tự lừa mình và di hoạ cho đời, nếu không là vô liêm sỉ một cách thành thực. C. Vận dụng phối hợp các thao tác lập luận 1. Vì sao phải sử dụng phối hợp các thao tác lập luận? Viết văn nghị luận là trổ tài sự hiểu biết, nhận thức, tìm hiểu của mình về đối tượng nghị luận nhằm nâng cao trình độ, năng lực, giúp người khác cùng hiểu và tin vào vấn đề. Đồng thời người viết cũng trổ tài chính kiến, thái độ, sự nhận xét vấn đề, không ngừng mang ra những điều chỉnh tích cực nhằm nâng cao sự tiến bộ trong ngành nghề văn minh trí não của văn học. Do đó phải sử dụng phối hợp các thao tác lập luận. – hiểu biết, nhận thức > giải thích – tìm hiểu > phân tích – nhận xét > phản hồi. 2. Tìm hiểu việc sử dụng phối hợp các thao tác lập luận trong bài văn sau: HOÀNG HẠC LÂU (Lầu Hoàng Hạc) Thôi Hiệu Thôi Hiệu (704 – 754) là một trong những nhà thơ xuất sắc thời Đường. Hoàng Hạc lâu là bài thơ nổi tiếng được truyền tụng xưa nay. Thắng cảnh lầu Hoàng Hạc ở huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc gắn với truyền thuyết người tiên là Tử An rồi Phí Văn Vi cưỡi chim hạc vàng đến nơi này. Tương truyền khi xưa Lí Bạch có đi qua Hoàng Hạc lâu, thấy phong cảnh hữu tình, muốn phóng bút một vài câu thơ ca ngợi nhưng chợt thấy bài Hoàng Hạc lâu khắc trên vách bèn ngửa mặt than rằng: Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu . Dịch Trước mắt thấy cảnh không tả được Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu. Lầu Hoàng Hạc toạ lạc ở vị trí cao nên có thể nhìn bốn phương trời mênh mang và phía dưới là dòng sông Dương Tử chảy về đông. Đứng trên lầu cao, cảm giác con người quá bé nhỏ trước vũ trụ, trước không gian vĩnh hằng và thời gian chảy trôi vĩnh viễn. Do đó, bốn câu đầu gợi tả quang cảnh chung nhưng cũng là suy niệm về phận người trước cái vô thủy vô chung: […]… tình ý sâu xa nên Nghiêm Vũ đời Nam Tống đã nói rằng “Đường nhân thất ngôn luật thi, đương dĩ Thôi Hiệu Hoàng Hạc Lâu đệ nhất” (Thơ niêm luật đời Đường bảy chữ, phải xếp bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu vào hạng nhất) VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN I Đoạn văn nghị luận là gì? Vai trò của đoạn trong tích xưa là chiêm nghiệm cái còn và cái đã mất Người tiên đã cưỡi chim thiêng mang nét đẹp đi rồi, hiện giờ lầu Hoàng Hạc chỉ còn dấu tích của kỉ niệm, đứng trơ trọi như cái xác không hồn Nhìn lên khung trời quang đãng chỉ thấy vầng mây trắng trôi lơ lửng ngàn năm: Ngàn năm mây trắng hiện giờ còn cất cánh Cảnh trong trẻo mênh mông mà cô quạnh đã diễn tả cái trống vắng chơi vơi trong tâm hồn lữ… diễm lệ mà im ắng như bức tranh tĩnh vật Cảnh trống vắng như lầu không, như khung trời cao Nhìn chung, khung cảnh đẹp như bức tranh thủy mạc tươi thắm những sắc màu: cánh hạc vàng, trời trong mây trắng, sông xanh, cỏ mướt Đứng trong cảnh đẹp thanh khiết, con người như cũng được thanh lọc tâm hồn Từ thê thê có nghĩa là xanh tươi mơn mởn nhưng cũng có nghĩa là lạnh buốt buồn bã, tùy thuộc vào cách phát âm Do đó,… con người thật quý giá nhưng cuối cùng sẽ đi về đâu sau trăm năm chìm nổi nên hình ảnh mây trắng phiêu bồng lãng du gợi cảm tưởng phù sinh của kiếp người Thơ luật Đường thất ngôn, đề ra phép tắc niêm luật rất chặt chẽ Tuy vậy bốn câu thơ đầu đã phá luật bằng trắc: hoàng hạc khứ / hoàng hạc lâu để đảm bảo tiểu đối về cái động (chim hạc cất cánh) với cái tĩnh (lầu Hoàng Hạc), từ đó nổi rõ ý tưởng giữa cái… Đoạn trong phân – hợp 4 Vấn đáp 5 Nêu phản đề 6 So sánh 7 Phân tích nhân – quả … ngàn năm: Ngàn năm mây trắng hiện giờ còn cất cánh Cảnh trong trẻo mênh mông mà cô quạnh đã diễn tả cái trống vắng chơi vơi trong tâm hồn lữ khách Bốn câu thơ nhưng có ba từ hoàng hạc, đây là điểm kiêng kị trong thơ Đường nhưng phép điệp hình ảnh chim hạc cất cánh đi (chỉ còn lại khoảng trời trống vắng) đã diễn tả niềm luyến tiếc không nguôi nét đẹp đã mất Tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc như gởi vào khung trời xanh . PHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý TRONG VĂN NGHỊ LUẬN A. Phân tích đề, tìm hiểu đề: – Đọc kĩ đề, Note từng từ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của. lời văn là gì III. Cách lập dàn ý bài văn nghị luận: 1. Xác nhận các luận điểm (ý lớn). – Đề bài có nhiều ý thì ứng với mỗi ý là một luận điểm. – Đề bài có một ý, thì ý nhỏ hơn cụ thể hoá ý đó. chức lập luận. B. Lập dàn ý Sau khoảng thời gian xác nhận được nội dung luận đề phải tổ chức lập luận, lập được dàn bài hợp lý là thỏa mãn yêu cầu của đề bài. Khâu này tùy thuộc rất lớn vào kết quả phân tích LẬP DÀN Ý TRONG VĂN NGHỊ LUẬN A.tìm hiểu đề: – Đọc kĩchútừng từ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ nhữ, nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn của câu, đoạn. Chia vế, ngăn đoạn, tìm hiểu mối tương quan giữa các vế: song song, chính phụ, nhân quả, tăng tiến, đối- Nhiệm vụ củađề là phải xác nhận cho được ba yêu cầu sau đây: *đề cầnlà gì? Có bao nhiêucần triển khai? Mối quan hệ giữa cácnhư thế nào? * Sử dụng thao tácgì là chính? Đề học sinh giỏi thường yêu cầu sử dụng tổng hợp các thao tác, nhưng còn tùy thuộc vào ngành nghề tri thức mà thiên về thao tác nào là chính. Nếu liên quan đến tác phẩm thì chủ yếu- minh chứng, nếu liên quan đến líhọc thì thiết yếu giải thích – bình* Vùng tư liệu được sử dụng cho nội dung: tác gia, trào lưu, giai đoạn, thời kỳhọc;nước hay toàn cầu. Đây là nhiệm vụ trước nhất trước khi làm bài cónghĩa quyết định đến chất lượng nội dung, thế nhưng nhiều h.s. chưathức được vai trò của khâu tìm hiểu đề này. Đôi lúc h.s. có đầu tư đúng mức nhưngkhông xác nhận đủ và đúng yêu cầu của đề ra. Bởi lẽ, ở dạng đề tường minh các em thường có tâm lý chủ quanđến hiểu chưa đầy đủ yêu cầu và định hướng của đề bài, còn có nguyên nhân là tri thức nền tảng chưa vững chắcđến việc tổ chứccòn lỏng lẽo, thiếu ý, thừa ý; ở dạng đề hàm ẩn nếu thiếu đầu tư suythì việc xác địnhđề rất khó khăn, nếu không cẩn trọng sẽđến tình trạng chệch hướng, thậm chí lạc đề. Vậy không nên phỏng đoán rồi viết ẩu. Cần phải đầu tư thích đáng cho khâu này. Dạng đề hàm ẩn thường liên quan đếnđề lý luận, đương nhiên trên cơ sởnhững tác phẩm cụ thể. Nếu đề có cách nói bóng bẩy thì phải xem xét nó thuộc ngành nghề tri thức nào của lýhọc. Chung qui lạilà phạm vi tri thức mà ta đã học. Ví dụ đề bài năm 1997- bảng B: “Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người”. Hãy bìnhkiến trên. Đề này đề cập đến tính năng giáo dục củahọc. Trên nền tảng hiểu biết về nhà cung cấp tri thức trên mà tổ chứcluận. B.Sau khoảng thời gian xác nhận được nội dungđề phải tổ chứcluận,đượcbài hợp lý là thỏa mãn yêu cầu của đề bài. Khâu này tùy thuộc rất lớn vào kết quảđề. Nếuđề sai một ly thìbài sẽ đi một dặm. Ít nhất là các em phải vạch ra được nhữnglớn, nhữngđiểm chính, trên nền tảng đó từnglớn phải cụ thể hóa thành nhiềunhỏ, thậm chí mỗinhỏ nếu cần thì cụ thể hóa thành nhiềunhỏ hơn còn gọi là khía cạnh củanhỏ. I. Tác dụng của vệcý: -giúp cho người viết lựa chọn, sắp xếpthành một hệ thống chặt chẽ và bao quát được nội dung cơ bản, nhờ đó mà tránh tình trạng lạc đề hoặcý, tránh được việc bỏ sóthoặc triển khaikhông tương xứng. – Cóngười viết sẽphối thời gian hợp lý khi viết bài II. Cơ sởCó hai nền tảng để xácý: – Trường hợp đề bài có nhiềuthì dựa vào chỉcủa đề nhưng phải xác nhận mối quan hệ giữa các ý, nhất là quan hệ chính phụ, không nên nhầm lẫnchính vớiphụ. Thường thì những đề này chỉ chứa nhữngchính. Ví dụ đề bài: NguyễnSiêu có viết: “chương ( ) có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ởchương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người” Hãy bìnhkiến trên. Đề có haitương đối rõ ràng. – Trường hợp đề bài chỉ có một ý. Đây là dạng thông dụng thường gặp ở những kỳ thi h.s. giỏi. Vậy thì căn cứ vào đâu để xây dựng được hệ thốnggồm nhữnglớnnhỏ? Hoàn toàn phụ thuộc vào vốn tri thức của bạn! Nếu có chút lúng túng thì hãy chúđến nội hàm của khái niệm (nếu có) hoặc hiểu cáingầm đằng sau những lờilà gì III. Cách lập dàn ý bài văn nghị luận : 1. Xác nhận cácđiểm (ý lớn). – Đề bài có nhiềuthì ứng với mỗilà mộtđiểm. – Đề bài có một ý, thìnhỏ hơn cụ thể hoáđó được xem là nhữngđiểm. Nội dung tri thức này ởbài học, tư liệu hoặc vốn tự có. 2. Tìmcứ (nhỏ) cho cácđiểm. Mỗiđiểm cần cụ thể hoá thành nhiềunhỏ hơn gọi làcứ. Số lượngnhỏ và cách triển khai tuỳ thuộc vàolớn.nhỏ có khi được gợi từ đề bài nhưnglớn là từ tri thức của bản thân. 3.ba phần: a. Mở bài: Giới thiệuđề b. Thân bài: Triển khai nội dung theo hệ thống cáclớn,nhỏ đã tìm. c. Kết bài: Tổng kết nội dung trình bày, liên hệ mở rộng, nâng caođề. Ví dụ đề bài năm 1997- bảng B: “Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người”. Hãy bìnhkiến trên. Đề này đề cập đến tính năng giáo dục củahọc. Trên nền tảng hiểu biết về nhà cung cấp tri thức trên mà tổ chứcluận. – Nóihọc chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người là nói đếnnghĩa tác độngcực củahọc so với người đọc, làm cho họ tốt hơn lên, biết sống nhân ái, nhân đạo. Khi đã nắm chắc nôi dungđề thì tiến hành xáclớn. Đề trên có thể triển khai thành nhữngđiểm như sau: 1.Vì saohọc lại có nhiệm vụ nhân đạo hóa? Dođồ sáng tạo của nhà văn, là tính năng cao thượng củahọc. 2.Văn học thực hiện nhiệm vụ nhân đạo hóa bằng cách nào? – Tranh đấu vì một xã hội công bằng tốt đẹp. – Giúp con người tự nhận thức, tự hoàn thiện đạo đức tư cách, tự chọn lối sống lối sống đẹp nhân ái. – Đôi khihọc giúp con người có lối sống nhân đạo bằng lời đềtrực tiếp. 3. Có phải chỉ cóhọc mới có tính năng giáo dục con người hay không? Gia đình, nhà trường, xã hội! Môn Giáo dục côngv.v Vậy đặc thù củahọc là gì? 4.nghĩađề: So với nhà văn. So với độc giả. CÁC THAO TÁCA. Khái niệm Thao tác được dùng để chỉ việc thực hiện những động tác theo trình tự và yêu cầu kỹ thuật nhất định. Thao táclà quá trình triển khai lí lẽ một cách lô gic nhằm phát hiện thêm một chân lí mới từ chân lí đã có.biệt thao tácvới các khái niệm khác: – Yếu tốluận: lí lẽ, chứng cứ, kết- Cách triển khailuận: diễn dịch, quy nạp, tổng — hợp, nêuso sánh,đáp,nhân quả. – Phương tiện diễn đạtluận: mô tả, tự sự, thuyết minh B. Các thao tácI. Giải thích 1. Khái niệm: GT làdụng tri thức để hiểuđềmột cách rõ ràng và giúp người khác hiểu đúngcủa mình. Ví dụ 1: Chất thơlà gì? Trả lời: Chất thơ còn gọi là chất trữ tìnhxuôi là chỉ thứ ngôn ngữ bóng bẩy, giàu xúc cảm và có tính nhạclời văn, nhiều từ ngữ gợi chứ không tả. Đoạnmở đầu truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là khá tiêu biểu Ví dụ 2: Giải thích câu thơ sau: Trải qua một cuộc bể dâu Những điềuthấy mà đớn đau lòng (ND – TK) Trả lời: Đây là câu thơ thứ 3 và 4 của Truyện Kiều. Câu thơ trổ tài sự chiêm nghiệm phổ quát của đại thi hào về cõi nhân sinh: chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Cuộc bể dâu là những đổi thay to lớn ngạc nhiên ngoài sự toan tính và muốn của con người, gây ra nhiều nỗi đau thương.cuộcxoay đó làm bật lên những thânbất hạnh khiến ND vô cùng thương xót, bất bình. Chinh phụ ngâm cũng cóthơ hầu hết vậy: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi / Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. 2. Cách làm: – Giải thích nền tảng: Giải thích từ ngữ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ – Trên nền tảng đó giải thích toàn bộchúnghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn Ví dụ: Sựsáng của ngôn ngữ là kết quả của một cuộcđấu.và sáng dính liền nhau. Tuy nhiên, cũng có thểra để cho được rõ nghĩa hơn nữa. Theo tôi nghĩ, sáng là thanh tao, dễ hiểu, khái niệm được rõ ràng; thường thường khái niệm, nhận thức, suyđược rõ ràng thì lời miêu tả ra cũng được sáng tỏ. Tuy nhiên, nhất làthơ, có rất nhiều trường hợpnghĩa sáng rồi, dễ hiểu rồi, nhưng lời miêu tả còn thô, chưa được trong, chưa được gọn, chưa được chuốt. Do đó tôi muốn hiểu chữ sáng là nặng về nói nội dung, nói tư duy, và chữlà nặng nói về hình thức, nói miêu tả (và cố nhiên là nội dung và hình thức gắn liền). Do vậy phảiđấu cho được sáng nghĩa, đồng thời lại phảiđấu cho đượclời, đặng cho câu thơ, câusáng (Xuân Diệu) II.1. Khái niệmlà chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành nhiều phòng ban, yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bêncủa đối tượng. Đối tượngbộ mônhọc: một nhận định,bản, tác phẩm, mộttác phẩm, nhân vật, các yếu tố cụ thể… Tác dụng củalà thấy được giá trịnghĩa của sự vật hiện tượng, mối quan hệ giữa hình thức với bản chất, nội dung.giúp nhận thức đầy đủ, sâu sắc cái giá trị hoặc cái phi giá trị của đối tượng. Riêng so với tác phẩmhọc,là để tìm hiểu ba giá trị củahọc: nhận thức, tư tưởng và thẩm mĩ. Yêu cầutích: phải nắm vững dấu hiệu cấu trúc của đối tượng để chia tách một cách hợp lí. Sau khitìm hiểu từng phòng ban, cụ thể phải tổng hợp tổng quan lại để nhận thức đối tượng đầy đủ, sâu sắc và trình bày ngắn gọn. 2. Cách- Tìm hiểu tính năng dấu hiệu của các cụ thể Ví dụ 1: Trời thu xanh ngắt mấy từng cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. (Nguyễn Khuyến) Từ xanh ngắt gợi tả không gian trời thu cao xanh vời vợi, nền trời là một màu xanh ngăn ngắt. Màu xanh này gợi tả được cảnhveo và thật im vắng, yên tĩnh. Cụm từ mấy từng cao đã diễn tả không gian sâu thẳm vô cùng. Trên nền không gian bạt ngàn ấy, tác giả điểm xuyết một cành trúc. Từ láy lơ phơ giàu sức tạo hình, gợi tả cành trúc khẳng khiu, thanh mảnh, nhẹ nhõm, thưa thớt lá, đang đong đưalàn gió nhẹ của chiều thu. Nhờ cần trúc với dáng nét lơ phơ mà cảnh thu có vẻ đẹp duyên dáng thơ mộng, thanh thoát. Ví dụ 2: Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc lơ lửng, trữ tình: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương – Hình ảnh thơ chân thực, không gian thân thiện nhưng nhờ cách lựa chọn thời gian nên đã gợi tả được phong cảnh tuyệt vời. Đó là thời điểm ngày đã hết, nắng chiều đã lưng nương nhưng lần lữa như không muốn đi. Bóng hoàng hôn còn lưu luyến thì trăng đã nhô lên, đổ ánh sáng dịu dàng. Do đó cảnh thung lũng có sự giao hòa ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, thứ ánh sáng dịu dàng,trẻo của trăng hoà với ánh sáng êm ả của hoàng hôn tạo ra một vừng sáng diệu kì như thực, như mơ. Chớp lấy khoảnh khắc lạ lùng, Tố Hữu đã mang đến cho thiên nhiên Việt Bắc một vẻ đẹp đơn sơ, mộng mơ làm say đắm lòng người. – Dùng phép liên tưởng để mở rộng nội dungnghĩa Ví dụ: THoài giới thiệu nhân vật Mịtruyện Vợ chồng A Phủ: – Trước nhà thống lí Pá Tra, người ta lúc nào cũng thấy Mị ngồi quay sợi bên tảng đá cạnh tàu ngựa. – Lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. > Vị trí ngồi ấy cho thấy cuộc sống Mị như bị thít chặtkiếp ngựa trâu và khuôn mặt lột tả cõi lòng luôn mang nỗi đau buồn thầm lặng dai dẳng, triền miên. Nỗi buồn đông cứng như tảng đá vô tri và đè nặng lên đôi vai, lên cuộc sống Mị. Tác giả đã trổ tài nỗi buồn của Mị với giọngngậm ngùi và chiều sâu thông cảm hiếm thấy. Đoạnmở đầu giúp người đọc nhìn thấy cảnh đời bi thương của nhân vật Mị. III. Minh chứng 1. Khái niệm: CM là mang ra những cứ liệu -chứng xác đáng để làm sáng tỏ một lí lẽ mộtkiến để thuyết phục người đọc người nghe tin tưởng vàođề. 2. Cách làm – Mang lí lẽ trước – Chọnchứng và đưachứng. Thiết yếu phảichứng đểCM thuyết phục hơn. Đôi lúc thuyết minh trước rồi tríchchứng sau. Ví dụ: Cảm xúc lãng mạnhọc giai đoạn 1945 – 1975 a. Cảm xúc lãng mạn được thể hiệntác phẩm như vậy nào? (Giải thích) – Tác phẩm thiên về truyền tụng lí tưởng, truyền tụng sự tốt đẹp của cuộc sống, thi vị hoá hiện thực. – Trổ tài những khát vọng hoài bão to lớn, niềm tin vào tương lai tươi sáng của quốc gia b. Một số dấu hiệu của cảm xúc lãng mạn (Minh chứng) * – Thơ ca truyền tụng sự tốt đẹp của cuộc sống hiện tại: Tổ quốc khi nào đẹp thế này chăng? – Chưa đâu! Và ngay cảnhững ngày đẹp nhất Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc, Nguyễn Du viết Kiều quốc gia hoá thành văn, Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc, Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng (Chế Lan Viên) Chỉ nhìn vào mặt tốt đẹp để truyền tụng, chưa nói được cái hiện thực còn ngổn ngang khó khăn nên nhiều tác phẩm mang cảm xúc lãng mạn như vậy. – Hiện thực khổ sở, thiếu thốn, mất mát hi sinh được thi vị hoá: + Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa Cả đô thànhngút cháy sau lưng Những chàng trai chưa trắng nợ người hùng Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm Rách tả tơi rồi đôi giàydặm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa. (Chính Hữu – Đường về) + Đường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây. (Phạm Tiến Duật) – Quang Dũng đã lãng mạn hoá phẩm chất người hùng của người chiến sĩ: Rải rác biên thuỳ mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. – Bức tranh thiên nhiênMảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu được nhìn qua ánh nhìn mơ mộng của Lãm nên có vẻ đẹp thi vị, lãng mạn, cất cánh bổng. * – Cuối tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là hình ảnh: cánh rừng xà nu bạt ngàn, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu tiếp nối đến chân trời. > Sức sống của thiên nhiên ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của cảtộc. Nó là nền tảng cho niềm tin tất thắng ở tương lai. Cảm xúc lãng mạn có thể bắt gặp ở hầu hết các tác phẩmthời kìhọc này. – Biết đánh Pháp lúc đầu như “châu chấu đá xe” nhưng lãnh tụ hoàn toàn tin tưởng vào ngày mai: Kháng chiến thành công ta trở lại Trăng xưa hạc cũ với xuân này. (Cảnh rừng Việt Bắc) – Lên đường nhập ngũ, anh bộ đội mang theo niềm hi vọng lớn: Cây si xanh gọi họ đến ngồibóng rợp của mình, nói tới ngày mai. Ngày mai sẽ là ngày sum họp Đã toả sáng. Những tâm hồn cao đẹp! (Nguyễn Mỹ) Sỡ dĩchương thời kì này giàu vẻ đẹp lãng mạn là vì hiện thực cách mạng có nhiều khổ sở, thiếu thốn, hi sinh nhưng cũng có nhiều vẻ đẹp, nhiều niềm vui và gợi nhiều mong ước về tương lai. IV. Bình1. Khái niệm: Bìnhlà luận bàn đánh giásự việc, hiện tượng… đúng hay sai, hay / dở; tốt / xấu, lợi / hại…; để nhận thức đối tượng, cách ứng xử thích hợp và có phương châm hành động đúng. – Yêu cầu của việc nhận xét là sát đối tượng, nhìn nhậnđề toàn diện, khách quan và phải cótrường tư tưởng đúng đắn, rõ ràng. 2. Cách làm: BL luôn có hai phần: – Mang ra những nhận định về đối tượngluận. Thông thường, những nhận định được rút ra từ kết quả- Trên nền tảng của những nhận định, người viết đánh giáđề Muốn đánh giáđề một cách thuyết phục thì phải cótrường đúngvà nhất thiết phải có tiêu chuẩn.NL xã hội, thì dựa vàotrường nhânvà tiêu chuẩn đạo líNLhọc, thì dựa vàotrường nhân dân, quyền con người và tiêu chuẩn là tính khách quan của đời sống,sự tiến bộ củahọc, so với tác phẩm cụ thể thi tiêu chuẩn là giá trị nhận thức, giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mĩ. Ví dụ: Bìnhvề sự đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu đối vớihọctộc qua bàitế nghĩa sĩ Cần giuộc? Trả lời: – Lần trước nhất người nôngđi vàohọc với vẻ tự nhiên vốn có về cuộc sống, đức tính. – Lần trước nhất NĐC thấy được nônglà chủ nhân thật sự của quốc gia,khi triều đình Nguyễn lúng túng, nhu nhược trước ngoại xâm thì nôngđã tự giác đứng lên đánh giặc để bảo vệ quê hương lãnh thổ. – Bàiđược viết bằng chữ Nôm, ngôn ngữ mộc mạc nhưng có sức gợi hình gợi cảm lớn, đặc biệt đoạndựng lại cảnh chiến tranh rất hoành tráng, có không khí và màu sắc sử thi, vượt qua hạn chế của bàitế thông thường. – Bàikhắc họa được hình tượng con người VN tiêu biểu về phẩm chất yêu nước và người hùng, trổ tài trí não quật cường và lẽ sống vì nước quên mình mang tính truyền thống củatộc VN. – Bàicónghĩa cỗ vũ trí não kháng chiến mạnh mẽ ngay từ lúc nó ra đời. V. So sánh 1. Khái niệm: So sánh là một thao tácnhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật, đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật để nêu ra những nét giống nhau hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của từng sự vật hoặc một sự vật mà mình quan tâm. Hai sự vật cùng loại có nhiều điểm giống nhau thì gọi là so sánh tương đồng, có nhiều điểm đối chọi nhau thì gọi là so sánh tương phản. Tác dụng của so sánh là nhằm nhận thức nhanh chóng dấu hiệu nổi trội của đối tượng và song song hiểu hiểu rằng hai hay nhiều đối tượng. 2. Cách làm – Trước hết là cần xác nhận đối tượngtừ đó tìm một đối tượng tương đồng hay tương phản, hoặc cần so sánh hai đối tượng song song – Nêu ra những điểm giống nhau giữa các đối tượng. – Dựa vào nội dung cần tìm hiểu, nêu ra điểm nổi bật giữa các đối tượng. – Xác nhận giá trị cụ thể của các đối tượng. Ví dụ 1: So sánhvề tư tưởng đạo lí vàvề hiện tượng đời sống và cách làm bài.về tư tưởng đạo lí vàvề hiện tượng đời sống là hai dạng đề cụ thể củaxã hội. Nghĩa là, luận bàn để hiểu một cách thấu đáo cũng nhưdụngđềvào đời sống và bản thân.Vấn đề đạo lí có tính chất truyền thống nhằm tập luyện đạo đức tư cách.đề hiện tượng đời sống mang tính thời sự nóng hổi nhằm mục đich rèn luyệnthức công dân. Đối tượngcó khác nhau nhưng cách làm bài giống nhaumở bài ta nên tìm hiểu và nói rõ nguyên nhân vì sao xuất hiệnđề trên và giới thiệu đề bàithân bài ta làm lần lượt cácsau 1. Giải thích cụ thể và tổng quátđề2. Đưachứng cụ thể đồng thờiđể thấy việc đúng / sai củađề. Nhận đinh tổng quan việc đúng / sai, hoặc nửa đúng nửa sai củađề. Khi lấychứng bạn cần phải có phương pháp và tránh hiện tượng lấy quá nhiều hoặc quá ítchứng. 3. Thảo luận mở rộngđề: chúng ta nên tìm hiểu các khía cạnh còn lại củađề; lật ngượcđề để hiểu chắc nịch hơn và tìm hiểu tác dụng,nghĩa củađề so với bản thân và đời sốngkết bài nên nhấn mạnh lần nữa giá trị củađề. Ví dụ 2: “Tiếng suốinhư tiếng hát xa”… Nguyễn Du, Bạch Cư Dị so tiếngvới tiếng suối. Thế Lữ lại so tiếng hátvới nước ngọc tuyền (suối ngọc). Những người này không mô tả trực tiếp tiếng suối. Chỉ có Nguyễn Trãi cho tiếng suối là tiếngcầm. Có vẻ đó là hình ảnh gần nhất với hình ảnhcâu thơ này. Có thể chẳng phải ngẫu nhiên. Nguyễn Trãi sành âm nhạc. Bác Hồ cũng thích âm nhạc. Tiếng hát của một danh ca Pháp từng thích nghe thời trẻ, đến tuổi bảy mươi Bác còn nhờ chị Mađơlen Rípphô tìm lại hộ. Tiếng suối ngàn của quốc gia hay đó là tiếng hát của trái tim người nghệ sĩ yêu đời. (Lê Trí Viễn) VI. Bác bỏ 1. Khái niệm: Bác bỏ là chỉ rakiến sai trái củađề trên nền tảng đó mang ra nhận định đúngvà bảo vệkiếntrường đúngcủa mình. 2. Yêu cầu của thao tácbác bỏ – Muốn bác bỏ mộtkiến sai thì phảiđầy đủkiến đó. Sau đó làm sáng tỏ hai phương diện: sai ở nơi đâu và vì sao như vậy là sai. Trả lời vì sao như vậy là sai, đó chính là thao tácbác bỏ. – Để khẳng địnhkiến sai cần xem xét ba yếu tố:điểm,cứ,chứng. – Bác bỏkiến sai là dùng lý lẽ vàchứng đểtích, lí giải vì sao như vậy là sai. * Lưu ý:thực tiễn, mộtđề nhiều khi có mặt đúng, mặt sai. Vì vậy, khi bác bỏ hoặc nhất định cần xem xét,từng mặt để tránh tình trạng nhất định chung chung hay bác bỏ, phủ nhận toàn bộ. 3. Cách sử dụng Bác bỏ mộtkiến sai có thể thực hiện bằng nhiều cách: bác bỏđiểm, bác bỏcứ, bác bỏ cáchhoặc phối hợp cả ba cách. a. Bác bỏđiểm: thông thường có hai cách bác bỏ – Dùng thực tiễn để bác bỏ: Nếuđiểm đi trái lại với thực tiễn thì ta dùng thực tiễn để bác bỏ. – Dùng phép suy luận: Từ thực tiễn, ta có thể thêm suyđể cái sai ấy bộc lộ rõ hơn. b. Bác bỏcứ: Là vạch ra tính chất sai lầm, giả tạolý lẽ vàchứng được sử dụng. c. Bác bỏluận: Là vạch ra sự tranh chấp, không nhất quán, phi lôgíccủa đối phương. * Lưu ý: Mục đích của bác bỏ là bảo vệ chân lí, xác nhận sự thật. Nếu xa rời mục đích chân lí thì sự bác bỏ trở thành nguỵ biện, vô dụng và có hại. Nội dung có bố cục như sau: Đoạn 1: Xác địnhđiểm cần bác bỏ. Đoạn 2:để thấy rõ thực chất củađiểm. Đoạn 3: Dùngcứ để bác bỏđiểm. Ví dụ: a. Nhất Chi Mai (Nhất Linh) phê bình VũPhụng, năm 1937. Đọc xong một đoạn văn, tôi thấylònguất, khó chịu, tức tối. Không phảiuất, khó chịu cái vết thương xã hội tảcâu văn, mà chính là vì cảm thấy tư tưởng hắc ám, căm hờn nhỏ nhen ẩnđó. ĐọcVũPhụng, thực không khi nào tôi thấy một tia kì vọng, một tư tưởng tuyệt vọng. Đọc xong ta tưởng nhân gian là một nơi địa ngục và xung quanh mình toàn là những kẻ giết người, làm đĩ, ăn tục, nói càn, một toàn cầu khốn nạn vô cùng. Phải chăng đó là tấm gươngchiếu tính tình, lí tưởng của nhà văn, một nhànhìn toàn cầu qua cặp mắt kính đen và một cội nguồncũng đen nữa. b. VũPhụng đãbác lại cùng năm đó, 1937. Khi dùng một từ dơ dáy tôi chẳng thấy khoái trá như khi các ông tìm được một kiểu áo phụ nữ mới mẻ, những lúc ấy, tôi chỉ thương hại cái nhân loại ô uế dơ dáy, nó bắt tôi phải viết như vậy, và nó bắt các ông phải chạy xa sự thực bằng những danh từ điêu trá củachương. Các ông quen nhìn một cô gái nhảy là một phụ nữ tân thời, vui vẻ trẻ trung, hi sinh cho tình yêu hoặc cách mạng lại gia đình. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một ngườibà vô học, chẳng có thị vị, lại hư hỏng, lại bất hiếu bất mục nữa, lại có nhiều vi trùngngười nữa. Tôi không biết gọi gái đĩ là nàng – chữ ấy nó thi vị lắm – hoặc tô điểm cho gái đĩ ấy những cái thi vị mà gái đĩ ấy không có, đến nỗi đọc xong truyện người ta chỉ thấy một gái đĩ làm gương cho thế gian noi theo! Đó, thưa các ông, cái chỗ bất đồngkiến giữa tất cả chúng ta! Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhàcùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời Hắc ám, có! Vì tôi vốn là người bị quan, căm hờn cũng có, vì tôi cho rằng cái xã hội nước nhà mà lại không đáng căm hờn, mà lại cứ “vui trẻ trung”, trưởng giả, ăn mặc tân thời, khiêu vũ v.v như các ông chủ trương thì một là không muốn đổi mới gì xã hội, hai là ích kỉ một cách đáng sỉ nhục. Còn bảo nhỏ nhen thì thì thế nào? Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những sự thống khổ của nhânnghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị cưỡng bức, muốn cho xã hội công bình hơn nữa, đừng có chuyện ô uế, dâm đãng, mà bảo là nhỏ nhen, thì há dễ Zôla (Dôla), Hugo (Huygô), Mabraux (Mabrô), Dostoievski (Đôtstôiepski), Maxime Gorki (Maxim Gorki) lại không cũng là nhỏ nhen? Nếu các ông không muốn sờ lên gáy thì thôi, bao nhiêu chuyện thanh cao, thanh lịch, cao thượng của loài người xin các ông cố mà hương hoa khấn khứa. Tôi xin để cáiấy cho các ông. Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy khốn nạn, quan tham lại nhũng,bà hư hỏng,ông dâm bôn, một tụisĩ đầu cơ xảo quyệt, mà cái xa hoa chơi bời của bọn giàu thì thật là những câu chửi rủa vào cái xã hộiquê, thợ thuyền bị lầm than, bị bóc lột. Lạc quan được cho đời là vui, là không cần đổi mới, cho cái xã hội này là hay ho tốt đẹp, rồi ngồi mà đánhbôi môi hình quả tim để đi đua ngựa, chợ phiên, khiêu vũ, theotôi, thế là giả dối, là tự lừa mình và di hoạ cho đời, nếu không là vô liêm sỉ một cách thành thực. C.dụng phối hợp các thao tác1. Vì sao phải sử dụng phối hợp các thao tácluận? Viếtlà trổ tài sự hiểu biết, nhận thức, tìm hiểu của mình về đối tượngnhằm nâng cao trình độ, năng lực, giúp người khác cùng hiểu và tin vàođề. Đồng thời người viết cũng trổ tài chính kiến, thái độ, sự đánh giákhông ngừng mang ra những điều chỉnhcực nhằm nâng cao sự tiến bộlĩnh vựcminh trí não củahọc. Do đó phải sử dụng phối hợp các thao tácluận. – hiểu biết, nhận thức > giải thích – tìm hiểu >- nhận xét > phản hồi. 2. Tìm hiểu việc sử dụng phối hợp các thao tácbàisau: HOÀNG HẠC LÂU (Lầu Hoàng Hạc) Thôi Hiệu Thôi Hiệu (704 – 754) là mộtnhững nhà thơ xuất sắc thời Đường. Hoàng Hạc lâu là bài thơ nổi tiếng được truyền tụng xưa nay. Thắng cảnh lầu Hoàng Hạc ở huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc gắn với truyền thuyết người tiên là Tử An rồi PhíVi cưỡi chim hạc vàng đến nơi này. Tương truyền khi xưa Lí Bạch có đi qua Hoàng Hạc lâu, thấy phong cảnh hữu tình, muốn phóng bút một vài câu thơ truyền tụng nhưng chợt thấy bài Hoàng Hạc lâu khắc trên vách bèn ngửa mặt than rằng: Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu . Dịch Trước mắt thấy cảnh không tả được Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu. Lầu Hoàng Hạc toạ lạc ở vị trí cao nên có thể nhìn bốn phương trời rộng lớn và phía dưới là dòng sông Dương Tử chảy về đông. Đứng trên lầu cao, cảm tưởng con người quá bé nhỏ trước vũ trụ, trước không gian vĩnh hằng và thời gian chảy trôi vĩnh viễn. Do đó, bốn câu đầu gợi tả quang cảnh chung nhưng cũng là suy niệm vềngười trước cái vô thủy vô chung: […]… tìnhsâu xa nên Nghiêm Vũ đời Nam Tống đã nói rằng “Đường nhân thất ngôn luật thi, đương dĩ Thôi Hiệu Hoàng Hạc Lâu đệ nhất” (Thơ niêm luật đời Đường bảy chữ, phải xếp bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu vào hạng nhất) VIẾT ĐOẠNI Đoạnlà gì? Vai trò của đoạn bài văn nghị luận II Nội dung và hình thức III Kết cấu IV Cách trình bày 1 Diễn dịch 2 Quy nạp 3 Tổng – phân. .. còn cất cánh Nhắc đếnxưa là chiêm nghiệm cái còn và cái đã mất Người tiên đã cưỡi chim thiêng mang nét đẹp đi rồi, hiện giờ lầu Hoàng Hạc chỉ còn dấucủa kỉ niệm, đứng trơ trọi như cái xác không hồn Nhìn lên khung trời quang đãng chỉ thấy vầng mây trắng trôi lơ lửng ngàn năm: Ngàn năm mây trắng hiện giờ còn cất cánh Cảnhtrẻo mênh mông mà cô quạnh đã diễn tả cáivắng chơi vơitâm hồn lữ… diễm lệ mà im ắng như bức tranh tĩnh vật Cảnhvắng như lầu không, như khung trời cao Nhìn chung, khung cảnh đẹp như bức tranh thủy mạc tươi thắm những sắc màu: cánh hạc vàng, trờimây trắng, sông xanh, cỏ mướt Đứngcảnh đẹp thanh khiết, con người như cũng được thanh lọc tâm hồn Từ thê thê có nghĩa là xanh tươi mơn mởn nhưng cũng có nghĩa là lạnh buốt buồn bã, tùy thuộc vào cách phát âm Do đó,… con người thật quý giá nhưng cuối cùng sẽ đi về đâu sau trăm năm chìm nổi nên hình ảnh mây trắng phiêu bồng lãng du gợi cảm tưởng phù sinh của kiếp người Thơ luật Đường thất ngôn, đề ra phép tắc niêm luật rất chặt chẽ Tuy vậy bốn câu thơ đầu đã phá luật bằng trắc: hoàng hạc khứ / hoàng hạc lâu để đảm bảo tiểu đối về cái động (chim hạc cất cánh) với cái tĩnh (lầu Hoàng Hạc), từ đó nổi rõtưởng giữa cái… Đoạn văn nghị luận là gì? Vai trò của đoạn bài văn nghị luận II Nội dung và hình thức III Kết cấu IV Cách trình bày 1 Diễn dịch 2 Quy nạp 3 Tổng — hợp 4đáp 5 Nêuđề 6 So sánh 7nhân – quả … ngàn năm: Ngàn năm mây trắng hiện giờ còn cất cánh Cảnhtrẻo mênh mông mà cô quạnh đã diễn tả cáivắng chơi vơitâm hồn lữ khách Bốn câu thơ nhưng có ba từ hoàng hạc, đây là điểm kiêng kịthơ Đường nhưng phép điệp hình ảnh chim hạc cất cánh đi (chỉ còn lại khoảng trờivắng) đã diễn tả niềm luyến tiếc không nguôi nét đẹp đã mất Tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc như gởi vào khung trời xanh . PHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý TRONG VĂN NGHỊ LUẬN A. Phân tích đề, tìm hiểu đề: – Đọc kĩ đề, Note từng từ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của. lời văn là gì III. Cách lập dàn ý bài văn nghị luận: 1. Xác nhận các luận điểm (ý lớn). – Đề bài có nhiều ý thì ứng với mỗi ý là một luận điểm. – Đề bài có một ý, thì ý nhỏ hơn cụ thể hoá ý đó. chức lập luận. B. Lập dàn ý Sau khoảng thời gian xác nhận được nội dung luận đề phải tổ chức lập luận, lập được dàn bài hợp lý là thỏa mãn yêu cầu của đề bài. Khâu này tùy thuộc rất lớn vào kết quả phân tích– Xem thêm –

Xem Thêm :  #17 cách chữa hôi miệng dân gian dứt điểm tại nhà – thảo dược súc miệng yên tử

Xem thêm: PHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý TRONG VĂN NGHỊ LUẬN, PHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý TRONG VĂN NGHỊ LUẬN, PHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý TRONG VĂN NGHỊ LUẬN

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Cây Xanh

Xem Thêm :   Chỉ một Gói Trà Túi Lọc nhỏ, làm được ti tỉ việc hay ho

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung

Related Articles

Back to top button