Giáo Dục

Nghệ thuật văn chính luận trong Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi

Quân trung từ mệnh tập gồm thư từ qua lại với các tướng tá nhà Minh và văn răn bảo tướng sĩ, các thư từ chiêu hàng tướng địch cũng được ông tổng hợp

Nghệ thuật văn chính luận trong Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nguyễn Trãi là một tác gia lớn của văn học Việt Nam thời trung

đại, là khí phách của dân tộc, là tinh hoa của dân tộc. Sự nghiệp và tác

phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước và tự hào dân tộc” [50, 13].

Văn chương Nguyễn Trãi là thứ văn chương có sức mạnh bằng mười vạn

quân, “có đủ sức để sửa sang việc đời” (Ngô Thế Vinh) Vì thế, cho đến nay,

đã có hàng trăm học giả trong và ngoài nước nghiên cứu về Nguyễn Trãi, tập

trung ở ba mặt lớn sau: Nguyễn Trãi – một con người mang tầm vóc lớn

trong lịch sử dân tộc; Nguyễn Trãi – một nhà tư tưởng vĩ đại; và Nguyễn

Trãi – một nhà văn xuất sắc trên nhiều thể loại văn học.

Xét trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi chúng ta có thể thấy

văn chữ Hán của Nguyễn Trãi chủ yếu là văn chính luận. Văn chính luận của

Nguyễn Trãi có nội dung yêu nước sâu sắc và tính chiến đấu cao. Chính vì

thế việc nghiên cứu và tìm hiểu nội dung và nghệ thuật văn chính luận của

Nguyễn Trãi là một việc làm có ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu và

giảng dạy văn học. Quân trung từ mệnh tập là một tác phẩm văn chính luận

xuất sắc, phản ánh tình hình địch và ta trong các giai đoạn chính của cuộc

kháng chiến. Quân trung từ mệnh tập không phải chỉ là những văn bản ngoại

giao đơn thuần mà là các bài văn chiến đấu, ở đó đã phát biểu lên chủ nghĩa

ái quốc và tư tưởng nhân nghĩa với những đặc sắc về mặt bút pháp luận

chiến của Nguyễn Trãi. Nghiên cứu Quân trung từ mệnh tập trong cái nhìn

đối chiếu, so sánh với các tác phẩm văn chính luận có ý nghĩa lịch sử của

dân tộc ta (Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ, Tuyên ngôn độc lập…) sẽ thấy được

quá trình phát triển về nghệ thuật của những áng văn mang nặng tấm lòng

với đất nước non sông.

1

Tìm hiểu về nghệ thuật văn chính luận trong Quân trung từ mệnh tập

không những giúp người nghiên cứu có thể giới thiệu tập văn sử dụng trong

quân đội mà Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi soạn thảo mà còn giúp người

viết có được cái nhìn xuyên suốt quá trình phát triển của văn chính luận

trong lịch sử văn học Việt Nam.

1.2. Về tác phẩm Quân trung từ mệnh tập các nhà nghiên cứu đã

nghiên cứu trên các mặt: nội dung tư tưởng, nghệ thuật luận chiến. Trong

luận văn này chúng tôi chọn hướng nghiên cứu đi sâu về nghệ thuật và đặc

biệt chú trọng đến mô hình kết cấu lập luận của những bức thư theo từng đối

tượng tiếp nhận.

1.3. Trong chương trình phổ thông có học “Lại thư cho Vương Thông”

trích trong Quân trung từ mệnh tập. Đây là một tác phẩm khó đối với học

sinh phổ thông không chỉ bởi khoảng cách về thời đại mà còn bởi chính thể

loại văn chính luận vốn không dễ tiếp nhận với các em. Từ hướng nghiên

cứu của mình tác giả luận văn hy vọng sẽ góp một phần nào có ích cho công

việc giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thông. Đây cũng là một định

hướng có ý nghĩa quan trọng cho người viết khi nghiên cứu di sản văn học

của quá khứ với mục đích “ôn cố tri tân”, học cũ để biết mới, hiểu xưa vì

ngày nay.

1.4. Hơn nữa, cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu đầy đủ về đặc

điểm nghệ thuật văn chính luận trong Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn

Trãi. Hầu hết các công trình đều tập trung nghiên cứu về ý nghĩa lịch sử

cũng như giá trị nội dung của tập văn. Còn những nghiên cứu về nghệ thuật

văn chính luận của Quân trung từ mệnh tập mới chỉ dừng lại ở những bài

viết trên các tạp chí nên chưa mang tính hệ thống đầy đủ.

Chính vì những lý do trên mà người viết đã lựa chọn đề tài: “Nghệ

thuật văn chính luận trong Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi ”

2. Lịch sử vấn đề

Nguyễn Trãi là vị anh hùng dân tộc, một nhân vật vĩ đại của lịch sử

Việt Nam ở thế kỷ XV, một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà chính trị thiên tài,

một nhà văn lớn tiêu biểu cho những tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân dân,

nhân nghĩa, hòa bình mãi mãi sáng rực [50, 13]. Số lượng các chuyên luận,

các công trình nghiên cứu, các bài báo, bài tựa viết về Nguyễn Trãi và thơ

văn ông cũng không thua kém bất cứ một tác gia nào của văn học trung đại.

Quân trung từ mệnh tập là một trong những tác phẩm còn lại của Nguyễn

Trãi. Đó không những là một tác phẩm văn học mà còn là một nguồn tư liệu

lịch sử có giá trị để nghiên cứu về khởi nghĩa Lam Sơn và cuộc chiến tranh

giải phóng dân tộc do Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo cũng như để nghiên

cứu về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Chính vì thế, tác phẩm đã thu hút được

sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực văn học và sử học.

Phần lớn các ý kiến phê bình, đánh giá đều nhận thấy vai trò và vị trí quan

trọng của tập văn trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi nói riêng và

văn học dân tộc nói chung cũng như sự nghiệp đấu tranh chính trị của quân

dân ta. Đồng thời các nhà nghiên cứu cũng khẳng định: Trước Nguyễn Trãi

mới có văn chính luận chứ chưa có nhà văn chính luận [38, 24], phần lớn

các tư tưởng triết học, chính trị, quân sự của Nguyễn Trãi đã nói lên khá cụ

thể trong Quân trung từ mệnh tập [17, 25]

Như vậy, các ý kiến đánh giá tuy không đi sâu về nghiên cứu nghệ

thuật văn chính luận trong Quân trung từ mệnh tập song ít nhiều định hướng

cho chúng tôi trong quá trình làm luận văn. Sau đây, chúng tôi xin điểm một

số ý kiến tiêu biểu.

2.1. Trước năm 1980

2.1.1. Về vấn đề văn bản

Thuật ngữ văn bản, trong ngôn ngữ phương Tây có gốc tiếng La tinh

là Textus, với nghĩa: sản phẩm đan dệt. Với từ nguyên này, văn bản mang

3

hàm nghĩa “nơi liên kết ngôn từ theo những quy tắc, thể thức nhất định để

tạo ra một thế ổn định tương đối về hình thức nhằm biểu đạt một nội dung

nhất định của hoạt động giao tiếp bằng ngôn từ” [32, 2]

Riêng trong lĩnh vực văn học, Đ.X.Likhatriop, nhà văn bản học

người Nga đã nhận xét: “Văn bản là sự biểu đạt bằng ngôn ngữ (viết) ý đồ

của người tạo ra nó. Người sáng tạo đó trong văn học hiện đại thường chỉ

là tác giả, nhưng trong văn học cổ đại và trung cổ thì vai trò của người

sáng tạo ra văn bản thường được mở rộng sang cả người sao chép, hiệu

đính. Người sao chép đã kết hợp sự sáng tạo của mình về văn bản với sự

sáng tạo của tác giả” [68, 3]. Hơn 300 năm văn hiến của dân tộc không

phải là huyền thoại mà từ lâu đã được ông cha ta đặc biệt là Nguyễn Trãi

chứng minh bằng những cứ liệu lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, văn

hóa, khoa học. Trải qua 10 thế kỷ sử dụng chữ Hán và chữ Nôm trong các

hoạt động sáng tạo văn hóa tinh thần, cha ông ta đã tạo dựng được một di

sản văn hóa thành văn khá đồ sộ. Nhưng trải qua bao cuộc bể dâu, nhiều

phen binh lửa những di sản văn hóa bị mất mát quá nhiều. Nguyên nhân

chiến tranh là một nhân tố tàn phá sách vở nghiêm trọng nhất. Nhưng ngoài

lý do chiến tranh, không phải không còn những nguyên nhân khác trực tiếp

hay gián tiếp hủy hoại kho tàng di sản văn hóa của dân tộc: khoảng cách

giữa người sáng tác và độc giả khiến cho tác phẩm không được phổ biến

rộng và dần dần bị thất truyền, hoặc các triều đại phong kiến hạn chế việc

in sách (triều Lý – Trần chỉ có kinh bổn Phật giáo được in tự do còn các

loại sách khác đều phải chờ “thánh chỉ”). Vì thế, phần lớn những tác phẩm

còn lại đều là nhờ công lao sưu tầm của các nhà nghiên cứu.

Đối với thơ văn của danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi, ngoài những lý

do trên, còn do một nguyên nhân oan nghiệt khác, ông bị triều đình phong

kiến nhà Lê kết tội oan và tru di tam tộc; từ đó mọi sáng tác thơ văn của ông

cũng bị hủy hoại. Những gì còn lưu lại được là nhờ ở tấm lòng ưu ái, nhiệt

4

huyết của bao thế hệ cha ông trong suốt mấy trăm năm qua đã liên tục tìm

tòi, sưu tập.

Sau vụ án Lệ Chi viên (trại vải) năm Đại Bảo thứ ba (1442), năm Giáp

Thân 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan và khôi phục chức tước cũ

cho ông, sai tìm con cháu ông để cất nhắc. Đến năm Đinh Hợi (1467), Lê

Thánh Tông hạ chỉ cho Trần Khắc Kiệm sưu tầm di cảo thơ văn ông [15, 416]

Trước năm 1980 hầu hết các tác giả đều quan tâm nghiên cứu về vấn

đề văn bản Quân trung từ mệnh. Đây là vấn đề quan trọng có ý nghĩa đối với

việc hiểu tác phẩm một cách chính xác. Chính vì vậy, các tác giả từ đời

Hồng Đức là Trần Khắc Kiệm đến các nhà nho triều Nguyễn là Dương Bá

Cung, Nguyễn Năng Tĩnh, Ngô Thế Vinh…quan tâm nghiên cứu. Những

công trình này chủ yếu tập trung khảo sát và rút ra kết luận về mặt văn bản

của tập văn.

Trong bản sưu tầm đầu tiên về Nguyễn Trãi có tên là Ức Trai di tập,

Trần Khắc Kiệm đã để ra 12 năm mới tập hợp được một số thơ Nguyễn Trãi,

khoảng hơn 100 bài biên sắp thành ba quyển đề là Ức Trai thi tập và đề tựa

năm Hồng Đức thứ 11 (1480). Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, ở

thiên văn nghệ chí chép : “Ức Trai thi tập gồm ba quyển, Nguyễn Trãi soạn,

Trần Khắc Kiệm sắp”. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú,

Xem Thêm :  Top 10 đoạn văn tả ngôi nhà bằng tiếng anh có dịch dành cho học sinh lớp 6

thiên văn tịch chí chép: “Ức Trai thi tập ba quyển, Nguyễn Trãi soạn, Trần

Khắc Kiệm biên sắp, lời thơ hòa nhã, trung hậu (…) chỉ có khí cách, không để

ý gọt giũa (…), tình tứ lâm ly, thật đúng là nhà thơ lớn, không thể đem từng

chữ, từng câu ra mà bàn được” [5, 13]. Nhưng công trình sưu tập thơ văn

Nguyễn Trãi của Trần Khắc Kiệm chưa được khắc in nên việc truyền bản khó

khăn và do bao biến cố, đổi thay triều đại, binh lửa loạn lạc khắp nơi nên bộ

sách trên đã bị thất truyền. Chúng ta chỉ biết được nó qua sự mô tả như trên

của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú.

Sau các công trình sưu tập thơ trên, thơ văn Nguyễn Trãi còn được chép

trong các tập thi tuyển sau: Tinh tuyển chư gia thi tập hay Tinh tuyển chư gia

luật thi tập, Trích diễm thi tập, Toàn việt thi lục, và Hoàng Việt thi tuyển.

Vào đầu thế kỷ XIX, Dương Bá Cung (1791 – 1868) người cùng làng

Nhị Khê với Nguyễn Trãi, vốn yêu mến thơ văn Nguyễn Trãi từ lâu, xót xa

trước tình trạng thất tán của nó, lại cảm thông sâu sắc với sự nghiệp của người

anh hùng đã đứng ra cặm cụi tìm tòi, “thường du lịch trong Nam, ngoài Bắc,

hễ gặp sĩ phu là tìm hỏi, kê cứu”, công việc âm thầm kéo dài khoảng 10 năm

(1823 – 1833) thì tạm hoàn thành và mãi 30 năm sau (1868) Ức Trai di tập

của Dương Bá Cung mới được đem xuất bản và in thành sách. Ba mươi lăm

năm đó là khoảng thời gian mà Dương Bá Cung, Nguyễn Năng Tĩnh và Ngô

Thế Vinh bàn bạc, trao đổi để bổ sung chỉnh lý văn bản Ức Trai di tập.

Như vậy là kể từ năm 1833, sau hàng chục năm sưu tầm, kê cứu.

Dương Bá Cung đã cơ bản hoàn thành bộ sách, ông mang bộ sách đó đến

nhờ Nguyễn Năng Tĩnh biên soạn, sắp xếp, phê bình, kiểm duyệt và viết lời

tựa. Sau khi được Nguyễn Năng Tĩnh giúp đỡ và góp ý, ông lại mang về bổ

sung và hiệu chỉnh. Đến năm 1834, ông lại mang bộ sách đến nhờ Ngô Thế

Vinh xem và góp ý những chỗ cần hiệu chỉnh, ông lại tiếp tục sửa đổi theo

gợi ý của Ngô Thế Vinh. Đến năm 1836, ông lại mang bộ sách đến Ngô Thế

Vinh nhờ xem lại và viết lời tựa. Sau đó, hai ông bàn bạc đem in ấn và công

bố bộ sách. Nhưng mãi tới năm Tự Đức thứ 21 (1868) ý định của hai ông

mới được nhà in Phúc Khê thực hiện in ấn và cho ra đời. Quân trung từ

mệnh tập xuất hiện trong quyển IV của bộ Ức trai di tập gồm 7 quyển.

Từ đầu thế kỷ XX đến trước năm 1945 là giai đoạn đất nước ta còn

chịu sự áp bức của chế độ thực dân phong kiến. Trong giai đoạn này, thơ văn

Nguyễn Trãi cũng như cuộc đời và toàn bộ sự nghiệp cứu nước, cứu dân của

người anh hùng dân tộc chưa được chú trọng nghiên cứu. Toàn bộ những sưu

tập cũng như những bản dịch, bài viết về Nguyễn Trãi chỉ xuất hiện trong

một số công trình giới thiệu về thân thế sự nghiệp của Nguyễn Trãi và một

số thơ văn dịch không đầy đủ. Có thể điểm qua một số công trình sau:

– Nguyễn Ức Trai luận, Nhà xuất bản Nam Phong số 140, 1929, trang 1-4

– Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Nhà xuất bản Nha học

chính Đông Pháp 1943, In lần thứ Thứ Ba; Nhà xuất bản Hội nhà văn 2002

– Nguyễn Trãi do Trúc Khê Ngô Văn Triện biên soạn, Nhà xuất bản

Tân dân 1941

– Ức Trai luận, Nhà xuất bản Nam Phong, số 144, 1924

– Ức Trai thi văn tập, Nhà xuất bản Lê Cường 1945

Từ năm 1945, khi nước ta giành được độc lập cho đến năm 1980, việc

nghiên cứu về cuộc đời sự nghiệp, tư tưởng và thơ văn của Nguyễn Trãi cũng

đã được chú trọng. Vấn đề sưu tầm, hiệu chính lại văn bản các tác phẩm của

Nguyễn Trãi đã được nhiều nhà nghiên cứu tập hợp, in ấn trong các cuốn như

“Nguyễn Trãi anh hùng dân tộc” của Ngô Văn Triện (Trúc Khê thư xã, Hà

Nội, 1953); Quân trung từ mệnh của Phan Huy Tiếp (Nhà xuất bản Sử học,

Hà Nội, 1961).

Vào khoảng năm 1965 -1966, nhờ tìm tòi trong kho thư tịch Hán –

Nôm, nhà thư tịch học Trần Văn Giáp phát hiện thêm được một số văn kiện

mới không có trong phần Quân trung từ mệnh tập của bản in. Ông đã sưu

tầm và tập hợp toàn bộ lại thành một tập gọi là Ức Trai Quân trung từ mệnh

tập bổ biên.

Như vậy, trước năm 1980, các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu

tương đối cẩn trọng các trước tác của Nguyễn Trãi, nhưng do điều kiện lúc bấy

giờ còn nhiều khó khăn nên hệ thống văn kiện tìm được chưa thực sự đầy đủ.

2.1.2. Về vấn đề nội dung và nghệ thuật tác phẩm

Sau khi văn bản Quân trung từ mệnh được biên tập phiên dịch và

chính thức đi vào đời sống văn hóa – học thuật, tác phẩm được khai thác

7

trước hết ở ý nghĩa lịch sử, giá trị nội dung gắn liền với từng bước phát triển

của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Tác giả Trần Huy Liệu trong cuốn “Nguyễn Trãi một nhân vật vĩ đại

trong lịch sử dân tộc” đã chỉ rõ những đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi đối

với sự nghiệp đấu tranh giữ gìn và dựng xây đất nước.

Tác giả Đỗ Văn Hỷ trong bài viết Tính chiến đấu của tập Quân trung

từ mệnh đã đưa ra khá nhiều vấn đề mới mẻ trong việc nhìn nhận tác phẩm

cả về nội dung và nghệ thuật, đã chỉ ra sức mạnh chiến đấu và chiến thắng kẻ

thù của Quân trung từ mệnh tập chính là ở tình cảm yêu nước thương dân

nồng cháy, tư tưởng nhân nghĩa chói lòa, ý chí giải phóng dân tộc thiết tha

và tài năng lập luận của Ức Trai.

Đi theo hướng khai thác mối quan hệ giữa văn chương và chính trị

trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi các tác giả: Mai Hanh, Nguyễn

Đổng Chi, Lê Trọng Khánh trong công trình nghiên cứu Nguyễn Trãi – nhà

văn học và chính trị thiên tài chỉ ra rằng: “Trong quá trình chiến đấu với

quân Minh, lúc nào Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng dựa chắc vào yếu tố lòng yêu

nước, yêu nhân dân, tư tưởng nhân nghĩa, ý chí hòa bình và sự nhất trí giữa

chính trị và quân sự”

2.2. Sau năm 1980

Trong tập kỷ yếu “Kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi”, nhiều tác giả

đã chỉ ra rằng Nguyễn Trãi là nhà quân sự, chính trị, ngoại giao… nhà văn

hoá lớn. Cống hiến của Nguyễn Trãi đã được một số tác giả nói tới. Chẳng

hạn, theo Giáo sư Nguyễn Tài Thư, Nguyễn Trãi “đã đề cập tới các yếu tố

hình thành dân tộc mà khoa học chính trị của thế kỷ XX này ít nhiều phải

nhắc tới”. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, “Dân tộc ta có gần 5 thế kỷ độc lập

lâu dài từ thời Ngô Quyền năm 938 đến đầu thế kỷ XIV. Chính là 5 thế kỷ

này, dân tộc Việt Nam (theo ý nghĩa khoa học tiến bộ nhất của khái niệm

dân tộc) được hình thành chỉ còn đợi điều kiện để hoàn chỉnh. Đó là sự tham

8

gia tích cực, bền bỉ của quảng đại nhân dân vào việc cứu nước và đựng

nước. Điều kiện đó đã xuất hiện với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lãnh thổ

chung, văn hoá chung, tập quán, nhất là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ

nước, đủ làm ra thứ keo sơn kết thành một dân tộc, một quốc gia dân tộc bền

vững ngay trong thời Trung đại phong kiến mà không phải chờ đến chủ

nghĩa tư bản phát triển tạo thành một thị trường chung. Có đủ điều kiện cho

sự hình thành dân tộc song ý thức một cách rõ rệt nhất, đầy đủ nhất về sự

hình thành đó là cống hiến tinh thần của Nguyễn Trãi, người có trình độ văn

hoá cao, có kiến thức quốc học lớn…”. Nhận thức rõ tầm quan trọng của văn

chương Nguyễn Trãi cũng như những tư tưởng ngời sáng của ông đối với sự

nghiệp bảo vệ và dựng xây đất nước Việt Nam ta trong thời phong kiến, các

nhà nghiên cứu ngày càng chú ý đi sâu khai thác các giá trị nội dung, nghệ

thuật của các sáng tác mà Nguyễn Trãi để lại cho đời sau.

2.2.1. Về vấn đề văn bản

Như vậy cho đến năm 1980, Quân trung từ mệnh tập đã được lần lượt

dịch thuật, công bố và mỗi lần như thế lại được bổ sung thêm về số lượng,

nâng cao hơn về chất lượng. Tuy nhiên, vấn đề văn bản vẫn là vấn đề luôn

được các nhà nghiên cứu quan tâm, bởi lẽ đây là vấn đề then chốt để hiểu tác

phẩm. Chỉ có văn bản và chỉ thông qua văn bản người ta mới đánh giá được

hết ý nghĩa cũng như nội dung nghệ thuật của nó. Đặc biệt là đối với một

trước tác viết bằng chữ Hán, lại có quá trình lưu truyền văn bản lâu dài và

phức tạp như di văn của Nguyễn Trãi, vấn đề nghiên cứu văn bản luôn phải

là một quá trình lật đi lật lại vấn đề nhằm tiếp cận hơn với sự thực lịch sử.

Chính vì thế, tác giả Nguyễn Văn Nguyên trong công trình nghiên cứu

“Những vấn đề văn bản Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi” đã tiến hành

tìm tòi, khảo sát, đối chiếu và lựa chọn các văn bản đưa vào tập văn đồng

thời hiệu đính những điểm mà tác giả thấy cần thiết góp phần tăng thêm hiểu

biết về trước tác đặc sắc này của Nguyễn Trãi.

9

Năm 1999, nhà xuất bản văn học và trung tâm nghiên cứu quốc học đã

biên soạn lại bộ sách Nguyễn Trãi toàn tập lấy tên là “Nguyễn Trãi toàn tập

tân biên”. Trong công trình này, các nhà nghiên cứu đã tiến hành thống kê,

hiệu đính trước tác của Nguyễn Trãi. Phần Quân trung từ mệnh, theo quan

điểm của các soạn giả bao gồm 68 văn kiện.

2.2.2. Về vấn đề nội dung và nghệ thuật tác phẩm

Trong chiều hướng có phần nâng cao hơn, một số nhà nghiên cứu đã

tập trung khảo sát từ góc độ thể loại, bút pháp, phương pháp lập luận và đặc

trưng tư duy nghệ thuật của tác phẩm.

Tác giả Bùi Duy Tân trong bài viết “Nguyễn Trãi – nhà văn chính

luận kiệt xuất” đã phân tích đặc điểm và tính chất văn chính luận Nguyễn

Trãi. Từ đó, tác giả đi đến khẳng định Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận

Xem Thêm :  #1 [giải đáp] on time là gì – phân biệt on time

kiệt xuất. Bởi lẽ “Văn chính luận Nguyễn Trãi có giá trị mẫu mực, cổ điển

và là cột mốc đánh dấu sự phát triển của văn chính luận dân tộc” [38, 29]

Trần Thanh Đạm cho chúng ta thấy rõ tầm vóc vĩ đại về tư tưởng của

Nguyễn Trãi qua bài viết “Vài nét về tư tưởng của Nguyễn Trãi qua thơ văn

ông” (Phan Sĩ Tấn, Trần Thanh Đạm – Thơ văn Nguyễn Trãi , Nxb GD 1980)

Đinh Gia Khánh với quan điểm hết sức đúng đắn coi công việc nghiên

cứu văn học quá khứ không thể là vu khoát, xa vời đời sống mà chính phải

gắn bó với nhu cầu con người đương đại, làm giàu kho tàng tri thức nói chung

đã đem đến cho người đọc hình ảnh về một Nguyễn Trãi ngày đêm trăn trở,

ưu tư, lo lắng vì dân vì nước; khẳng định một trong những nội dung cơ bản

nhất trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng “nhân nghĩa”, “yên dân”. Đặc biệt

với bài viết “Bút pháp Quân trung từ mệnh tập” ông đã đi sâu nghiên cứu các

vấn đề nghệ thuật văn chính luận của Nguyễn Trãi để đi đến kết luận rằng

Nguyễn Trãi là người đã đưa văn chính luận đến một trình độ cao.

Bài viết “Quân trung từ mệnh tập, đỉnh cao của dòng văn học luận

chiến ngoại giao chống xâm lược” của Nguyễn Huệ Chi là một trong những

Xem Thêm :   Tự học tiếng Trung Bài 31 Giáo trình 301 câu đàm thoại tiếng Hoa

 

10

bài viết đã đi sâu khai thác giá trị nội dung và nghệ thuật của Quân trung từ

mệnh tập. Cũng như các tác giả khác, Nguyễn Huệ Chi đã khẳng định giá trị

cổ điển, mực thước của văn chính luận Nguyễn Trãi, đồng thời chỉ rõ vị trí

của một ngòi bút “khai phá”, đi đầu về việc sử dụng ngòi bút làm vũ khí

chiến đấu hiệu quả.

Với bài viết “Tìm hiểu phương pháp lập luận của Nguyễn Trãi trong

Quân trung từ mệnh tập” tác giả Đặng Thị Hảo đã chỉ ra những biện pháp

lập luận cơ bản mà Nguyễn Trãi đã sử dụng để đánh địch. Điều đó thể hiện

trong cách chọn lọc từ ngữ, kết cấu, phân tích vấn đề…bộc lộ một trình độ

kiến thức chắc chắn, một khả năng tư duy sắc sảo của Ức Trai.

Tác giả Bùi Văn Nguyên với các công trình tiêu biểu như: “Chủ nghĩa

yêu nước trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn”, “Văn chương Nguyễn

Trãi”, “Ức Trai di tập bổ sung” cũng đã nghiên cứu về văn chính luận Nguyễn

Trãi đặt trong tương quan với toàn bộ sự nghiệp văn học của Ức Trai.

Chẳng phải chỉ giới văn nghệ sĩ như các nhà văn, nhà thơ hay các nhà

nghiên cứu phê bình văn học mới quan tâm tìm hiểu thơ văn Nguyễn Trãi mà

thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã có khá nhiều bài viết về Nguyễn Trãi nhân

dịp các lễ kỉ niệm 520 năm ngày mất, hoặc 600 năm ngày sinh Ức Trai…

Trong các bài viết đó, với cương vị một người đứng đầu chính phủ, Thủ tướng

đánh giá rất cao tầm vóc tư tưởng vĩ đại và tài năng văn chương kiệt xuất của

người anh hùng Nguyễn Trãi. Chúng ta có thể thấy ở đây một Nguyễn Trãi

nhà văn với tài hùng biện hơn người, một Nguyễn Trãi nhà thơ với tấm lòng

ưu ái, bao dung suốt đời trăn trở, nghĩ suy, ưu tư vì dân, vì nước.

Nhìn chung, các tác giả và tác phẩm kể trên đã có những đóng góp

quan trọng vào việc nghiên cứu, giảng dạy và phổ biến Quân trung từ mệnh

tập. Nhưng tất cả hầu như chỉ chú trọng vào những vấn đề chính sau:

– Nghiên cứu văn bản

– Nghiên cứu nội dung – tư tưởng

11

– Nghiên cứu về nghệ thuật lập luận

Từ những định hướng trên, chúng tôi thấy vấn đề về nghệ thuật văn

chính luận đã được đề cập đến nhưng chưa thật sự đi sâu vào từng biện pháp

nghệ thuật mà chủ yếu chỉ dừng ở việc phân tích nghệ thuật lập luận mà thôi.

Chính vì vậy, lựa chọn đề tài này chúng tôi hy vọng sẽ bổ sung thêm một

cách hiểu về nghệ thuật của tập văn từ đó góp phần định hướng cho việc

giảng dạy văn chính luận ở trường phổ thông cũng như góp phần nâng cao

chất lượng sử dụng văn chính luận trong cuộc sống hàng ngày. Bởi lẽ đây là

một thể loại rất cần thiết cho việc đấu tranh chính trị, ngoại giao nên có giá

trị thực tiễn cao.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Phạm vi khảo sát: Khảo sát các vấn đề trong 62 bức thư trong

Quân trung từ mệnh tập.

– Trên cơ sở tìm hiểu nghệ thuật văn chính luận, khảo sát tác phẩm

Quân trung từ mệnh tập, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu bút pháp luận

chiến từ đó sẽ khái quát thành nghệ thuật đánh giặc của Nguyễn Trãi.

– Tác phẩm Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi (Khảo sát theo

tài liệu: Nguyễn Trãi toàn tập tân biên – Nxb Văn học, H. 1999; Những vấn

đề văn bản học Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi – tác giả Nguyễn Văn

Nguyên – Nhà xuất bản Văn học, H.1998)

* Đối tượng khảo sát: Là những bức thư mang đậm màu sắc văn

chính luận của Nguyễn Trãi.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp

nghiên cứu chủ yếu sau:

– Phương pháp khảo sát, thống kê, phân tích, phân loại

Sử dụng phương pháp này là một bước cần thiết vì nó sẽ cung cấp các

dữ liệu tin cậy cho bản luận văn. Quá trình khảo sát thống kê sẽ đi theo

12

hướng thống kê những vấn đề mà người viết thấy có sự lặp lại tạo thành hệ

thống về nội dung, nghệ thuật của tập văn.

Từ những kết quả thống kê chúng tôi tiến hành phân loại hệ thống các

bức thư theo những tiêu chí riêng.

– Phương pháp so sánh, đối chiếu, mô hình hóa

Sau khi thống kê, phân loại cần phải tiến hành so sánh, đối chiếu ở

từng cấp độ khác nhau giữa các văn bản để thấy được nét đặc trưng của từng

văn bản, sau đó tìm ra cấu trúc mô hình của các bức thư. Từ đó, làm nổi rõ

sự thống nhất của tư tưởng chiến lược và sự linh hoạt trong nghệ thuật thuyết

phục đối phương của Nguyễn Trãi đối với từng đối tượng khác nhau.

– Phương pháp tổng hợp, hệ thống hoá

Từ các kết quả khảo sát, phân tích so sánh, đối chiếu đó chúng tôi tổng

hợp lại thành các luận điểm và hệ thống hoá một cách khoa học nhằm mục tiêu

làm sáng tỏ nghệ thuật văn chính luận của Nguyễn Trãi trong Quân trung từ

mệnh tập.

5. Những đóng góp mới của luận văn

Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích, làm sáng tỏ nghệ thuật văn chính luận của

Nguyễn Trãi chúng tôi muốn đưa ra một cái nhìn rõ nét hơn và toàn diện hơn

về vai trò và vị trí của Quân trung từ mệnh tập đồng thời khẳng định bước phát

triển của văn chính luận Nguyễn Trãi trong lịch sử văn học Việt Nam.

Qua đó, chúng tôi cũng muốn khẳng định rõ hơn về sự vận động và

phát triển của văn chính luận dân tộc.

Hiện nay, văn chính luận đối với phần lớn các em học sinh phổ thông

vẫn đang là một thể loại khó trong việc tiếp nhận. Tác giả luận văn hy vọng

nghiên cứu của mình sẽ phần nào hữu ích cho việc dạy và học các tác phẩm

văn chính luận trong nhà trường phổ thông.

13

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn gồm ba chương.

Chương 1: Vài nét về tác phẩm Quân trung từ mệnh tập

Chương 2: Sức mạnh chiến đấu của tập văn xét từ phương diện

nghệ thuật

Chương 3: Kết cấu mô hình các bức thư thông qua cách phân loại

đối tượng của Nguyễn Trãi.

14

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP

1.1. Những vấn đề về văn bản Quân trung từ mệnh tập

1.1.1. Quá trình sưu tầm, biên tập văn bản

Như phần mở đầu đã trình bày, oan án Lệ Chi viên đã làm các tác

phẩm của Nguyễn Trãi bị mất mát gần hết nhưng nhờ có những tấm lòng ưu

ái, cảm mến tài năng Ức Trai của các thế hệ học giả mà chúng ta mới có

được phần nào trước tác của Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng:

Người sáng tác trong văn học hiện đại thường chỉ là tác giả, nhưng trong văn

học cổ đại và trung cổ thì vai trò của người sáng tạo ra văn bản thường được

mở rộng sang cả người sao chép, hiệu đính. Người sao chép đã kết hợp sự

sáng tạo của mình với sự sáng tạo của tác giả. Chính vì thế việc tìm hiểu các

tác phẩm văn học trung đại phải gắn liền với việc nghiên cứu về các văn bản

qua các thời kỳ.

Năm 1464, Lê Thánh Tông chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi,

năm 1467 “ra lệnh tìm kiếm những di cảo thơ văn của cố Hàn lâm thừa chỉ

học sĩ Nguyễn Trãi” [21, 416]. Trong khoảng đời Hồng Đức (1470 – 1494),

Trần Khắc Kiệm đã dày công sưu tầm và biên tập thành hai tác phẩm của

Nguyễn Trãi mà chúng ta đã biết là Ức trai thi tập và Quân trung từ mệnh

tập. Công lao của Trần Khắc Kiệm là rất lớn nhưng chắc chắn cũng chi thu

thập được một phần di sản thành văn của Nguyễn Trãi.

Cho đến khi Lê Quý Đôn viết Đại Việt thông sử với Lời tựa đề năm

Cảnh Hưng 10 (1749) thì hai tác phẩm này vẫn còn và cho biết rõ: Ức Trai

thi tập gồm 3 quyển và Quân trung từ mệnh tập 1 quyển.

15

Sau đó không lâu, hai tác phẩm của Nguyễn Trãi do Trần Khắc Kiệm

sưu tầm và biên tập không còn nữa và Dương Bá Cung (1795 – 1868) phải

làm lại công việc của Trần Khắc Kiệm là ra sức sưu tầm lại các tác phẩm còn

lại của Nguyễn Trãi. Mãi đến năm 1868, bộ Ức Trai di tập mới hoàn thành

và khắc in gồm 7 quyển, trong đó quyển IV là Quân trung từ mệnh tập gồm

có 42 văn kiện.

Ngày nay, việc nghiên cứu, phiên dịch Quân trung từ mệnh tập của

Nguyễn Trãi đều chủ yếu dựa vào Ức trai di tập do Dương Bá Cung sưu

tầm, bản Phúc Khê tàng bản.

Căn cứ vào bản dịch của Phan Huy Tiếp trong cuốn Quân trung từ

mệnh tập do nhà xuất bản Văn Sử Địa xuất bản năm 1961, các nhà nghiên

cứu đã sưu tầm, thống kê và hiệu đính các bức thư. Cho đến thời điểm đó, ta

Xem Thêm :  Biểu cảm về cây xoài ❤️️ 15 bài văn mẫu ngắn hay nhất

thấy tập thư có tất cả là 46 văn kiện.

Năm 1966, nhà nghiên cứu thư tịch học uyên bác Trần Văn Giáp đã có

công phát hiện thêm một số văn kiện mới thuộc loại Quân trung từ mệnh của

Nguyễn Trãi được chép lại trong Ức Trai di tập bản chép tay trước 1856,

Hoàng Lê hoàng các di văn và Hoàng triều dữ Minh nhân vãng phục thư

tập. Ông tập hợp lại trong tập Ức Trai Quân trung từ mệnh tập bổ biên

(1966, Thư viện Quốc gia, ký hiệu W.1006/70) và công bố trên tạp chí

Nghiên cứu Lịch sử và Tìm hiểu kho sách Hán – Nôm. Ông phát hiện được

30 bài, trong đó có 7 bài gần như trùng với Ức Trai di tập của Phúc Khê tàng

bản, chỉ khác “một đôi câu, dăm ba chữ” (Trần Văn Giáp). Như vậy số văn

kiện bổ sung là 23 bài. Nguyễn Trãi toàn tập xuất bản năm 1969 và tái bản

năm 1976 đã kịp thời bổ sung những văn kiện mới phát hiện này vào Quân

trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi.

Gần đây, nhà nghiên cứu Hán – Nôm Nguyễn Văn Nguyên tự đặt ra

cho mình một số vấn đề văn bản học về Quân trung từ mệnh tập như: mối

quan hệ giữa các bản chép tay với bản in Phúc Khê tàng bản. Tác giả đã tiến

Xem Thêm :   Chuyển đổi đơn vị đo diện tích

 

16

hành điều tra những thư tịch Hán – Nôm còn lưu giữ những văn kiện Quân

trung từ mệnh của Nguyễn Trãi trong các thư viện, chủ yếu là Thư viện của

Viện Hán Nôm và Viện Sử học. Tác giả đã phát hiện và khảo sát 12 cuốn

sách, trong đó có 7 cuốn có những văn kiện Quân trung từ mệnh được tác giả

chọn nghiên cứu và đối chiếu kỹ là: Ức Trai di tập bản in Phúc Khê tàng

bản, Ức Trai di tập bản chép tay ký hiệu VHv, 2159 của Viện Hán – Nôm,

Ức Trai di tập bản chép tay ký hiệu A. 140 của Viện Hán – Nôm, Ức Trai di

tập bản chép tay ký hiệu Hv.179 của Viện Sử học, Ức Trai di tập bản chép

tay ký hiệu Hv.462 của Viện Sử học, Hoàng triều dữ Minh nhân vãng phục

thư tập ký hiệu A.1973 của Viện Hán – Nôm, Hoàng các di văn ký hiệu

VHv.1129/2 của Viện Hán – Nôm. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu, phân tích

các văn bản, tác giả rút ra một kết luận quan trọng là các văn bản Quân trung

từ mệnh của các cuốn sách trên thuộc hai nhóm văn bản khác nhau: một

nhóm gồm Hoàng triều dữ Minh nhân vãng phục thư tập và Hoàng các di

văn có nguồn gốc trước Ức Trai di tập có thể coi như Di văn đời Lê, một

nhóm thứ hai gồm những văn bản Ức Trai di tập in và chép tay. Trên cơ sở

khảo sát văn bản đó, tác giả phác họa sơ đồ về quá trình lưu truyền các văn

bản Quân trung từ mệnh tập đời Lê và đời Nguyễn.

Nguyễn Văn Nguyên tiếp tục nghiên cứu các văn bản thuộc nhóm Ức

Trai di tập để tìm ra mối liên hệ giữa các văn bản và lập giản đồ về quá trình

hình thành, biên tập, sửa chữa văn bản Ức Trai di tập.

Về số lượng các văn kiện Quân trung từ mệnh, Nguyễn Văn Nguyên

không phát hiện thêm văn kiện mới so với Trần Văn Giáp, nhưng cống hiến

mới của tác giả là đã tiến hành hiệu đính văn bản, lấy bản in Phúc Khê tàng

bản làm bản nền và đối chiếu với những văn bản chính của của hai nhóm: Di

văn đời Lê và nhóm Ức Trai di tập. Theo tác giả, số lượng dị văn lên đến hàng

nghìn và nếu tính những câu chữ trọn nghĩa thì cũng đến khoảng 600 trường

hợp có dị đồng giữa các văn bản, trung bình mỗi văn kiện có 11 trường hợp.

17

Tác giả đã tiến hành khảo dị nguyên văn chữ Hán và đưa ra cách xử lý những

trường hợp có dị văn. Đối với những văn kiện độc bản, tác giả cũng đưa ra

một số đính chính tự thấy cần thiết. Về bản dịch tiếng Việt, tác giả kế thừa

thành quả dịch chú của người đi trước và chỉ sửa chữa, bổ sung những trường

hợp có dị văn và cần đính chính.

Về số lượng văn kiện của Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Văn

Nguyên căn cứ vào tiêu đề của tác phẩm và thuyết minh của Lê Quý Đôn để

đưa ra tiêu chí tuyển chọn là thư từ qua lại với tướng Minh và văn khuyên dụ

tướng sĩ của ta trong thời gian khởi nghĩa. Với quan niệm như vậy tác giả xác

định số lượng văn kiện Quân trung từ mệnh tập gồm: 40 văn kiện trong Ức

Trai di tập bản VHv. 2159, quyển Văn loại – Quân trung từ mệnh tập, 2 văn

kiện do Dương Bá Cung sưu tầm thêm về sau xếp vào quyển Văn loại và 20

văn kiện trong số 23 văn kiện do Trần Văn Giáp bổ sung, cộng 62 văn kiện.

Quân trung từ mệnh tập không phải là tên chính thức một tác phẩm

của Nguyễn Trãi, mà là tên một sưu tập một loại tác phẩm của Nguyễn Trãi

do Trần Khắc Kiệm thực hiện đầu tiên trong đời Hồng Đức (1470 – 1497).

Tiếp theo đó, Dương Bá Cung và một số tác giả khác thế kỉ XIX cũng sử

dụng trong Ức Trai di tập để chỉ một số di văn của Nguyễn Trãi. Trong tên

gọi sưu tập này vừa chứa đựng một số tiêu chí chung, vừa mang quan niệm

khác nhau. Đã là “quân trung” thì mọi người đều dễ dàng thừa nhận là

những văn kiện soạn trong thời kì chiến tranh nghĩa là trong phạm vi khởi

nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427) trước khi vương triều Lê chính thức thành lập.

Còn “từ mệnh” thì như Lê Quý Đôn giải thích là bao gồm thư từ qua lại với

tướng nhà Minh và văn khuyên dụ tướng sĩ nghĩa quân Lam Sơn. Quân

trung từ mệnh tập là tập văn sử dụng trong quân đội mà Nguyễn Trãi đã thay

mặt Lê Lợi soạn thảo.

Như vậy, trải qua quá trình sưu tầm và nghiên cứu, cho đến nay vấn đề

về văn bản của Quân trung từ mệnh tập vẫn còn là một hướng nghiên cứu

18

mở dành cho các nhà khoa học chuyên ngành Hán Nôm. Bởi thành quả

nghiên cứu của các tác giả trước đã cho ta thấy rằng quá trình sưu tầm vẫn

chứa đựng nhiều khả năng bổ sung thêm số lượng văn bản cũng như có thể

nảy sinh vấn đề về dị bản đòi hỏi phải chỉnh sửa cho chính xác, phù hợp hơn

với thực tế lịch sử.

1.1.2. Yếu tố cấu thành tác phẩm

Quân trung từ mệnh tập được viết với mục đích hỗ trợ cho đấu tranh

quân sự trên chiến trường đồng thời thuyết phục quân địch chấp nhận hòa

giải, rút quân về nước. Mặc dù mục đích là như thế nhưng làm nên tác phẩm

này cần phải có sự kết hợp của rất nhiều yếu tố từ khách quan đến chủ quan.

Trước hết, xét yếu tố khách quan ta có thể thấy rằng tình hình cục diện

chiến tranh giải phóng đất nước của ta đang tiến đến giai đoạn cao trào. Đó

là vào năm 1423, sau khi nghĩa quân rút về núi Chí Linh lần thứ ba, cuộc

khởi nghĩa bước sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn tiến công mãnh

liệt, liên tục “càng đánh càng được, đi đến đâu đánh tan đến đấy, như phá

vật nát, như bẻ cành khô” và đánh địch trên cả các mặt: quân sự, chính trị,

ngoại giao, nhanh chóng kết thúc chiến tranh một cách toàn thắng. Có thể

căn cứ vào chiến lược của bộ tham mưu quân khởi nghĩa: chủ trương hòa

đàm với giặc để củng cố lực lượng đồng thời phát động chiến tranh nhân dân

cả nước đánh giặc – một quan điểm chiến tranh rất tiến bộ mà chỉ những

người hiểu thấu sức mạnh của nhân dân mới có thể có được.

Bên cạnh đó, xuất phát từ phương châm “đánh mạnh vào lòng địch” –

một bộ phận của đấu tranh chính trị mà Nguyễn Trãi đã dùng để chỉ hai hình

thức đấu tranh với địch: dụ hàng các tướng lĩnh, binh sĩ, địch ngụy ở các

thành; đấu tranh hòa đàm với bọn chủ tướng địch, buộc chúng phải chấm dứt

chiến tranh, rút quân về nước. Nguyễn Trãi đã đặt công tác vận động phản

chiến lên một tầm quan trọng, mà nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược

trong các thời đại trước chưa làm được và ông đã thành công.

19

Ngay từ những ngày đầu đến với khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã

có một quan điểm khởi nghĩa rất trong sáng, sâu sắc và tiến bộ. Đó là quan

điểm xây dựng trên cơ sở một tấm lòng yêu dân yêu nước tha thiết, một sự

tin tưởng vững chắc vào sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân và một

ý chí sắt đá xả thân cứu nước, vượt mọi gian khổ hy sinh để chiến thắng

quân giặc xâm lược.

Làm nên sức mạnh chiến đấu như Quân trung từ mệnh tập đã đạt

được không chỉ căn cứ vào đường lối chỉ đạo chiến tranh của bộ tham

mưu quân khởi nghĩa mà còn nhờ vào yếu tố chủ quan của một tài năng

“viết thư thảo hịch” Ức Trai.

1.1.3. Tính chất của tác phẩm

Văn chính luận thường bàn đến những vấn đề chính trị, xã hội có tầm

quốc gia, thường đề cập đến những vấn đề lớn của đất nước, nên thường phát

triển mạnh trong những thời kỳ mà vấn đề dân tộc nổi lên hàng đầu của hiện

thực lịch sử. Trong văn chính luận, tính chất và cảm hứng dân tộc là nổi bật.

Và với mỗi tác phẩm sự thể hiện các cảm hứng đó lại ở những khía cạnh

khác nhau.

Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi có những đặc điểm và tính

chất nổi bật.

1.1.3.1. Tính chất đối ngoại

Có thể thấy rằng tập văn chủ yếu gồm những từ mệnh, chiếu biểu giao

thiệp với hoàng đế và các tướng lĩnh nhà Minh cho nên tính chất đối ngoại

được thể hiện rất rõ rệt. Trong tổng số 62 văn kiện ta thấy có 53 văn kiện

(chiếm 85%) là thư từ giao thiệp với tướng lĩnh và triều đình nhà Minh xoay

quanh những vấn đề chủ yếu sau:

Trước tiên là một tinh thần phê phán quyết liệt đối với những hành

động bạo ngược cũng như những hành động bội ước của giặc Minh mà

Nguyễn Trãi đã thể hiện khi trực tiếp đầy phẫn nộ, khi ngầm ý sâu xa.

Sài Gòn Metro Mall chúc các bạn thành công trong cuộc sống

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Giáo Dục

Related Articles

Back to top button