Kiến Thức Chung

Khảo sát các động từ tình thái trong Tiếng Việt

Ngày đăng: 23/03/2015, 09:30

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  BÙI TRỌNG NGOÃN KHẢO SÁT CÁC ĐỘNG TỪ TÌNH THÁI TRONG TIẾNG VIỆT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN HÀ NỘI – 2004 DANH MỤC CÁC BẢNG  Trang Bảng 2.1 100 Bảng 2.2 102 Bảng 4.1 186 DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT  – (*A) : A không chấp thuận được – (ĐT) : động từ – (ĐTTT) : động từ tình thái – (HVTL) : hành vi tại lời – (HY) : hàm ý – (TGĐ) : tiền giả định – (TM) : tường minh – (VTTT) : vị từ tình thái MỤC LỤC  Trang phụ bìa Trang Lời cam kết Mục lục Danh sách các bảng Danh sách những từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 7 1.1 Khái niệm tình thái 7 1.2 Khái niệm ĐTTT và ĐTTT trong tiếng Việt 17 1.3 Các cách phân loại ĐTTT tiếng Việt theo hướng ngữ nghĩa 30 Chương 2: BÌNH DIỆN KẾT HỌC CỦA ĐỘNG TỪ TÌNH THÁI TIẾNG VIỆT 36 2.1 Ngữ đoạn vị từ và những tính chất ngữ nghĩa- ngữ pháp của động từ trong ngữ đoạn vị từ 36 2.2 Trung tâm của ngữ đoạn động từ có ĐTTT 38 2.3 Cấu trúc tham tố của ngữ đoạn ĐTTT 39 2.4 Thành tố phụ trước của ngữ đoạn ĐTTT 40 2.5 Thành tố phụ sau của ngữ đoạn ĐTTT 76 2.6 Vai trò của ĐTTT so với sự đề bạt chủ ngữ 98 2.7 Tổng kết chương 99 Chương III: BÌNH DIỆN NGHĨA HỌC CỦA ĐTTT TIẾNG VIỆT 103 3.1 Dấu hiệu ngữ nghĩa của lớp động từ tình thái nhận thức 103 3.2 Dấu hiệu ngữ nghĩa của lớp động từ tình thái đạo nghĩa 146 3.3 Tổng kết chương 159 Chương IV: BÌNH DIỆN DỤNG HỌC CỦA ĐTTT TIẾNG VIỆT 163 4.1 Một số vấn đề chung 163 4.2 ĐTTT trong những tuyên bố có HVTL thuộc lớp tái hiện 166 4.3 ĐTTT trong những tuyên bố có HVTL thuộc lớp điều khiển 169 4.4 ĐTTT trong những tuyên bố có HVTL thuộc lớp biểu cảm 187 4.5 ĐTTT trong những tuyên bố có HVTL thuộc lớp cam kết 192 4.6 ĐTTT trong những tuyên bố có HVTL thuộc lớp tuyên bố 192 4.7 Tổng kết chương 194 KẾT LUẬN 196 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 201 TÀI LIỆU THAM KHẢO 202 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Trong những năm gần đây, các nhà ngôn ngữ học đã chuyển trọng tâm lưu ý từ ngôn ngữ học cấu trúc sang ngôn ngữ học tính năng, quan tâm nhiều hơn đến công năng của ngôn ngữ với tư cách là công cụ giao tiếp và những bình diện làm ra nghĩa của câu. Khái niệm ngữ nghĩa của câu được mở rộng, không chỉ bó hẹp ở nghĩa mô tả (representative) mà còn là nghĩa tình thái (modality), không chỉ quan tâm đến hiển ngôn mà còn phấn đấu làm sáng tỏ các cơ chế làm nảy sinh hàm ý, không chỉ quan tâm đến tuyên bố trần thuật với giá trị chân nguỵ của nó mà còn quan tâm cả những tuyên bố có hiệu lực tại lời khác Trong hoàn cảnh như vậy, các xu hướng ngữ pháp thiên về hình thức đã bộc lộ một số nhược điểm không thể bỏ qua, đặc biệt ở năng lực giải thích của chúng. Ngữ pháp tính năng, với tư cách là một xu hướng ngữ pháp thiên về ngữ nghĩa, được tạo dựng đã phần nào khắc phục các nhược điểm của ngữ pháp hình thức. Một trong những trọng tâm mà ngữ pháp tính năng hiện đang theo đuổi là tìm hiểu tình thái của câu. Đã có những công trình tìm hiểu nâng cao về tình thái (J. Lyons, F.R. Palmer, T. Givón) trong từng ngôn ngữ cụ thể hay xuyên ngôn ngữ. Trong những phương tiện ngôn ngữ đánh dấu tình thái thì các động từ tình thái (ĐTTT) (modal verbs) chiếm một vị trí rất trọng yếu, như nhận định của Louis Goosens, một trong những đồng nghiệp của nhà ngữ pháp tính năng Hà Lan S. Dik: “Tình thái, trong tất cả các phương diện của nó, là một thành tố nội dung của ngôn ngữ và các ĐTTT là phương thức quan trọng để biểu thị các đặc trưng khác nhau của tình thái trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới” (Goosens: “Tình thái và các động từ 2 tình thái: Một số vấn đề đặt ra đối với ngữ pháp chức năng”, in trong A.M. Bolkesteine, 1985, trang 203). Ở Việt Nam, các công trình dành cho tình thái rất ít, riêng về các ĐTTT thì hình như chúng chưa được quan tâm tìm hiểu đúng mức. Chỉ có lẻ tẻ một số bài báo sơ bộ thăm dò các động từ được, bị, phải đề cập đến các ĐTTT như một trong những phương tiện biểu thị tình thái (Hoàng Tuệ, [111]), một vài luận án thăm dò sâu một nhóm ĐTTT hoặc trong các chuyên luận ngữ pháp, khi bàn đến các tiền giả định và hàm ý, một số ví dụ về các ĐTTT được nêu ra minh họa (Cao Xuân Hạo, [45], [47]). Trong chuyên luận “Động từ trong tiếng Việt”, Nguyễn Kim Thản cũng chỉ mới phác qua vài trang về nhóm ĐTTT và tiêu chuẩn phân loại cũng như các đặc trưng ngữ nghĩa chỉ được nêu hết sức sơ sài [89, tr.165-169]. Có thể thấy, những vấn đề sau đây hoàn toàn chưa được tìm hiểu đúng với tầm trọng yếu của chúng: a) Xác nhận các ĐTTT với tư cách là một tiểu lớp động từ (ĐT) cơ hữu của tiếng Việt. b) Vai trò của các ĐTTT với tư cách là một loại phương tiện biểu thị các nội dung tình thái của câu (tình thái khách quan/ tình thái chủ quan/ tình thái nhận thức/ tình thái đạo nghĩa ). c) Tổ chức của các đoản ngữ có ĐTTT làm trung tâm cùng sự lí giải tổ chức đó về phương diện ngữ nghĩa. d) Vai trò của ĐTTT trong tổ chức cấu trúc của câu (sự chế định của các vị ngữ là ĐTTT so với việc lựa chọn chủ ngữ trong câu, việc hiện thực hóa các thành phần phụ khác). e) Các kiểu hành vi ngôn ngữ mà các ĐTTT có thể tham gia biểu thị. Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn tìm hiểu những vấn đề nêu trên. 3 Chúng tôi nhận thấy rằng đây là một việc làm thiết yếu so với thực tiễn tìm hiểu và giảng dạy Việt ngữ ở Việt Nam hiện tại. 2. Mục đích và nhiệm vụ tìm hiểu: Luận án đặt cho mình nhiệm vụ tìm hiểu những vấn đề liên quan đến ĐTTT. Đây là những vấn đề mang tính thời sự, đặc biệt trong hoàn cảnh ngày càng có nhiều nhà tìm hiểu quan tâm đến các bình diện ngữ dụng của câu và đẩy mạnh các tìm hiểu theo hướng ngữ pháp – ngữ nghĩa. Cụ thể, luận án sẽ tập trung vào các nhiệm vụ tìm hiểu sau đây: 2.1. Xác nhận các ĐTTT trong tiếng Việt và các tiểu lớp của nó. Theo ngữ pháp truyền thống, các phạm trù từ vựng ngữ pháp nói chung và các ĐTTT nói riêng được phân xuất dựa theo những tiêu chuẩn có tính phép tắc chung (ý nghĩa ngữ pháp tổng quan, các dấu hiệu hình thái và cú pháp). Tuy nhiên, luận án chọn cách tiếp cận của ngữ pháp – ngữ nghĩa. Theo đó, các ĐTTT trong tiếng Việt cũng có những đặc trưng ngữ nghĩa chung với các ĐTTT trong các ngôn ngữ khác, đó là: “a. Động từ chính biểu thị sự khởi đầu, kết thúc, duy trì, thành công, thất bại, cố gắng, ý định, nghĩa vụ hoặc khả năng đối với trạng thái hay sự kiện được nêu ở bổ ngữ của nó. b. Chủ thể của ĐTTT bắt buộc cũng phải là chủ thể của ngữ đoạn vị từ làm bổ ngữ ” [Givón .T, 123, tr.533]. Dựa trên dấu hiệu ngữ nghĩa trọng yếu này, có thể xác lập một danh sách các ĐTTT tiếng Việt, phân biệt với các tiểu lớp ĐT khác thân thiện với nó như các ĐT chỉ thái độ mệnh đề (tiếc, e, nghĩ, chắc, mừng, buồn ), các động từ khiên động (bắt, khiến, sai, nhờ ). Các ĐTTT, cũng như các ĐT khác, có ngữ trị riêng của mình. 4 Sau khoảng thời gian được xác nhận, các ĐTTT được phân ra thành các tiểu nhóm, tiếp tục dựa vào các tiêu chuẩn ngữ nghĩa như tiền giả định và hàm ý tình thái. 2.2. Phân tích các ĐTTT tiếng Việt theo các nội dung tình thái mà chúng biểu thị: tình thái khách quan hay tình thái chủ quan, tình thái nhận thức hay tình thái đạo nghĩa cùng các hàm ý tình thái đi kèm. 2.3. Tổ chức của đoản ngữ có ĐTTT làm trung tâm. Luận án sẽ tập trung vào các vấn đề: a) Các bổ ngữ của ĐTTT. Như đã biết, ĐTTT khi nào cũng đòi hỏi một ĐT khác làm bổ ngữ đi kèm. Các ĐT làm bổ ngữ này được ngữ pháp tính năng phân thành các tiểu loại theo các tiêu chuẩn chủ ý, động, có kết thúc, trải nghiệm b) Các tác tử tình thái (ví dụ, các hư từ về thời, thể) có thể tham gia vào ngữ đoạn ĐTTT. 2.4. Vai trò của vị ngữ là ĐTTT trong cấu trúc của câu. Luận án tập trung thăm dò sự chế định của vị ngữ ĐTTT so với việc đề bạt chủ ngữ. 2.5. Mối quan hệ tương liên giữa câu có vị ngữ là ĐTTTvới các kiểu hành vi tại lời mà câu đó có thể thực hiện. Vấn đề này nằm trong một khung mô tả rộng hơn đó là sự chế định, thúc đẩy qua lại giữa nội dung mệnh đề và khung tình thái của câu. Qua việc thăm dò lực ngôn trung của các tuyên bố chứa ĐTTT, luận án kì vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ một vài khía cạnh của vấn đề. 3. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài: Có thể xem đề tài chúng tôi là đề tài trước hết đi sâu tìm hiểu một cách 5 có hệ thống toàn bộ tiểu loại ĐTTT tiếng Việt, đồng thời nêu ra các dấu hiệu ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng của lớp từ này trong sự so sánh với các tiểu loại ĐT khác của tiếng Việt. 3.1. Về phương diện lý luận, luận án góp phần tìm hiểu bản chất và đặc trưng của lớp ĐTTT tiếng Việt trên cả ba bình diện kết học, nghĩa học và dụng học. Từ đó, luận án góp phần làm sáng tỏ hơn vai trò của các ĐTTT với tư cách là một loại phương tiện biểu thị các nội dung tình thái của câu, vai trò của động từ tình thái trong tổ chức cấu trúc của câu Nói cách khác, luận án góp phần dựng lên một bức tranh toàn cảnh về lớp ĐTTT tiếng Việt. 3.2. Về phương diện thực tiễn, kết quả của luận án sẽ góp thêm những tư liệu xác đáng cho việc biên soạn một số giáo trình, tài liệu về ngôn ngữ Việt có liên quan đến phạm vi đề tài; phần nào có ích cho các công trình tìm hiểu đối chiếu lớp ĐTTT tiếng Việt với ĐTTT của các ngôn ngữ khác. Luận án có thể xây dựng thành một chuyên mục riêng để giảng dạy cho sinh viên khoa Ngữ văn. Luận án cũng có thể bổ sung những tri thức thiết yếu cho người Việt Nam cũng như người nước ngoài học tiếng Việt, giúp họ có thể sử dụng đạt hiệu quả cao lớp từ này. 4. Phương pháp tìm hiểu và tư liệu tìm hiểu: 4.1 Phương pháp tìm hiểu: Luận án ưu tiên dùng phương pháp quy nạp, từ những xem xét tư liệu mà đề xuất và lý giải vấn đề. Trong quá trình thu thập và xử lý tư liệu, một số thủ pháp của ngữ pháp truyền thống và ngữ pháp tính năng đã được vận dụng linh hoạt để làm nổi rõ và phát hiện bản chất của đối tượng. Đó là các thủ pháp cải biến, thay thế, tỉnh lược, bổ sung, chêm xen Định hướng của luận án là định hướng của ngữ pháp ngữ nghĩa, vì vậy khi nêu mô hình hay mô tả các phối hợp hình thức, khi nào luận án cũng phấn đấu truy tìm những nguyên 6 nhân về ngữ nghĩa để giải thích chúng. 4.2. Tư liệu tìm hiểu: Luận án thu thập tư liệu thuộc về tiếng Việt hiện đại. Cụ thể, tư liệu trong luận án được thu thập từ các nguồn: – Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên – Nxb Giáo dục, 1997. – Những tác phẩm văn học Việt Nam và những bản dịch các tác phẩm văn học nước ngoài, những văn bản tạp chí tiếng Việt. – Những cuộc giao tiếp hội thoại được xem xét, ghi chép trực tiếp hàng ngày cũng được dùng trong luận án này. 5. Bố cục của luận án: Luận án gồm 214 trang, trong đó phần chính văn là 200 trang. Ngoài phần mở màn và tổng kết, luận án gồm 4 chương: Chương I: Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài. Chương II: Bình diện kết học của động từ tình thái tiếng Việt. Chương III: Bình diện nghĩa học của động từ tình thái tiếng Việt. Chương IV: Bình diện dụng học của động từ tình thái tiếng Việt. […]… – các từ biểu thị tính tình thái như: động từ tình thái , động từ chỉ thái độ mệnh đề, động từ ngữ vi, quán ngữ tình thái, tiêủ từ tình thái, thán từ, phó từ tình thái Nếu có sự phân biệt phương tiện từ vựng và phương tiện ngữ pháp thì ĐTTT tiếng Việt là phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái 1.2 KHÁI NIỆM ĐỘNG TỪ TÌNH THÁI VÀ ĐỘNG TỪ TÌNH THÁI TRONG TIẾNG VIỆT: 1.2.1 Ý kiến của các nhà Việt. .. tr.50-51] 1.1.5 Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị ý nghĩa tình thái 16 của tuyên bố Tình thái trong tuyên bố được biểu thị bằng nhiều phương tiện khác nhau Palmer trong cuốn “Mood and Modality” (Thức và tình thái) [125] cho rằng có ba phương tiện ngữ pháp biểu thị ý nghĩa tình thái là thức (mood), động từ tình thái (modal verbs) và các tiểu từ (particles) Thức xa lạ với tiếng Việt vì trong tiếng Việt không… đã nêu, từ có vai trò như vậy phải là chịu Lúc này nên coi ngừng là một động từ bán tình thái Hoặc trong các chuỗi “quyết định phải giả vờ (làm mặt giận)”, “phải lo (phát huy)”, thì phải, giả vờ, lo là các động từ bán tình thái Như vậy có thể nói động từ bán tình thái trong tiếng Việt không có hình thái riêng, vốn dĩ chúng là các ĐT thường hay ĐTTT chuyên biệt và chỉ mang danh xưng này một cách lâm… với tiếng Việt, các phương tiện biểu hiện tính tình thái chưa được nghiên cứu sâu và toàn diện” [75, tr.31] Mặt khác, trong các ngôn ngữ không biến đổi hình thái như tiếng Việt, sự phân biệt các phương tiện từ vựng và ngữ pháp trong việc biểu thị các nội dung tình thái không được đặt ra nghiêm ngặt”[106, tr.221] Có thể kể ra một số phương tiện ngôn ngữ biểu thị 17 nội dung tình thái trong tiếng Việt: … cái đẹp đẽ của tiếng Việt để lại cho con cháu trăm đời về sau [134, tr 245] Cao Xuân Hạo đã nhận xét về những chuỗi vị từ tình thái và quan hệ ngữ pháp của chúng được ông xác định như sau: “Như định nghĩa của vị từ tình thái cho thấy, quan hệ của một vị từ tình thái với một vị từ đi sau (và trong trường hợp một vị từ tình thái có thể dùng như một vị từ thường, nghĩa là có thể có danh từ làm bổ ngữ,… ĐTTT tiếng Việt Tuy nhiên, việc mở rộng các ĐTTT sang các phó từ chỉ thời gian (đã, 22 sẽ, đang, sắp, mới ), chỉ sự tiếp diễn (cũng, vẫn, cứ, đều ), các từ phủ định (không, chưa, chẳng ) gây cho chúng tôi một số băn khoăn sau: + Nếu cho rằng nghĩa của các tác tử tình thái trên tương đương với một nhóm thực từ thì các từ tình thái khác cũng tương tự Vậy tại sao ông vẫn phân biệt ba loại từ tình thái: … quát của động từ tình thái là biểu thị khả năng, sự cần thiết, ý chí thực hiện hoạt động hay duy trì trạng thái Từ đó, ông xác định các động từ tình thái sau: cần, chịu, có thể, dám, định, nên, nỡ, buồn, chực, khỏi, toan Đồng thời, Nguyễn Kim Thản cũng đưa ra cách phân biệt động từ tình thái với cụm động từ có hai động từ bằng phép cải biến Ví dụ: – đi ăn > đi mà ăn (+) – muốn ăn > muốn mà ăn (-) -… lên trong các công trình sau: + Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng, tập 1, KHXH, H.,1991 + Tiếng Việt lớp 12 (Ban KHXH) GD, H.,1995 + Tài liệu giáo khoa thí điểm Tiếng Việt lớp 12 – sách giáo viên – GD, H., 1996 Thuật ngữ “verb” được ông hiểu là vị từ và ông chủ trương không phân biệt động từ, tính từ mà chỉ coi trong câu ngoài các tham tố là vị từ Cao Xuân Hạo đã cho biết có hơn 120 ĐTTT tiếng Việt. .. những ý định riêng của mình Tình thái chủ quan hay tình thái ngôn ngữ được chia thành hai phạm trù là tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa Tình thái nhận thức là tình thái về độ chân thực, độ cam kết đối với 13 chuẩn mực chân thực của điều được nói ra là tất yếu hay không tất yếu, có thể hay không thể Xét về độ chân thực, trong tình thái nhận thức có ba phạm trù là: – Tình thái thực hữu (factive):… Vậy tại sao ông vẫn phân biệt ba loại từ tình thái: ĐTTT, phó từ tình thái (đứng sau ĐT như cả, lại, nốt, rồi, tuốt, xong ), tiểu từ tình thái (à, ạ, ư, sao, nhỉ, nhé) mà không mang toàn bộ chúng vào phạm vi thực từ Sự phân biệt ba loại từ tình thái kể trên có thuần tuý là hình thức? + Nếu các tác tử tình thái trên là ĐT thì trong các ngữ động từ sẽ xuất hiện quá nhiều ĐT đi liền nhau và ĐT nào sẽ là trung . niệm tình thái 7 1.2 Khái niệm ĐTTT và ĐTTT trong tiếng Việt 17 1.3 Các cách phân loại ĐTTT tiếng Việt theo hướng ngữ nghĩa 30 Chương 2: BÌNH DIỆN KẾT HỌC CỦA ĐỘNG TỪ TÌNH THÁI TIẾNG VIỆT. kết học của động từ tình thái tiếng Việt. Chương III: Bình diện nghĩa học của động từ tình thái tiếng Việt. Chương IV: Bình diện dụng học của động từ tình thái tiếng Việt. 7 Chương. tư cách là một tiểu lớp động từ (ĐT) cơ hữu của tiếng Việt. b) Vai trò của các ĐTTT với tư cách là một loại phương tiện biểu thị các nội dung tình thái của câu (tình thái khách quan/ tình thái

Xem Thêm :   học tiếng trung cấp tốc, chủ đề khám bệnh (phần 2) đau đầu

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Giáo Dục

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung
Xem Thêm :  Hướng dẫn cách chạy quảng cáo tiktok hiệu quả nhất 2021

Related Articles

Back to top button