Kiến Thức Chung

đặc điểm truyện ngắn nguyễn minh châu trước 1975

Ngày đăng: 03/10/2015, 23:31

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠKHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂNBỘ MÔN NGỮ VĂNVÕ HỒNG NHẬTMSSV: 6116139ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮNNGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 1975Luận văn tốt nghiệp đại họcNgành Ngữ vănCán bộ hướng dẫn: LÊ THỊ NHIÊNCần Thơ, năm 2014ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁTĐỀ TÀI: ĐẶCĐIỂM TRUYỆN NGẮNNGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 1975PHẦN MỞ ĐẦU1. Nguyên nhân chọn đề tài2. Lịch sử vấn đề3. Mục đích nghiên cứu4. Phạm vi nghiên cứu5. Phương pháp nghiên cứuPHẦN NỘI DUNGCHƯƠNG I: TRUYỆN NGẮN – KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM;TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM1.1 Truyện ngắn1.1.1 Khái niệm truyện ngắn1.1.2 Dấu hiệu thể loại truyện ngắn1.1.3 Dấu hiệu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1954-19751.2 Tác giả và tác phẩm1.2.1 Tác giả Nguyễn Minh Châu1.2.1.1 Cuộc đời1.2.1.2 Sự nghiệp sáng tác1.2.2 Giới thiệu một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮNNGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 19752.1 Hiện thực chiến tranh trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 19752.1.1 Những khó khăn khổ sở trong kháng chiến2.1.2 Những mất mát, hy sinh trong cuộc chiến2.1.3 Những thắng lợi của trận chiến tranh2.2 Tiến trình xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc trong truyện ngắn Nguyễn MinhChâu trước 19752.2.1 Những mặt tích cực của quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc2.2.2 Một số tồn tại của quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc2.3 Trí não yêu nước và chủ nghĩa người hùng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châutrước 19752.3.1 Lòng căm thù giặc sâu sắc2.3.2 Sẵn sàng đấu tranh bảo vệ đất nước2.3.3 Sẵn sàng là hậu phương vững chắc để phục vụ tiền tuyếnCHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮNNGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 19753.1 Văn nghệ xây dựng nhân vật3.1.1 Mô tả ngoại hình nhân vật3.1.2 Văn nghệ trổ tài tính cách nhân vật3.1.2.1 Hành động nhân vật3.1.2.2 Ngôn ngữ đối thoại3.1.2.3 Ngôn ngữ độc thoại3.2 Không gian và thời gian nghệ thuật3.2.1 Không gian nghệ thuật3.2.2 Thời gian nghệ thuật3.3 Ngôn từ nghệ thuật3.3.1 Văn nghệ sử dụng từ ngữ3.3.2 Văn nghệ sử dụng cấu trúc ngữ pháp3.3.3 Văn nghệ sử dụng các biện pháp tu từ3.4 Giọng điệu nghệ thuậtKẾT LUẬNPHẦN MỞ ĐẦU1. Nguyên nhân chọn đề tàiNền văn học Việt Nam hiện đại đã được điểm nét son bằng chính cuộc sống và tácphẩm của những nhà văn chân chính, trong đó có nhà văn Nguyễn Minh Châu. Có lúcsáng tác của ông đã trở thành “một hiện tượng văn học”, thu hút sự quan tâm của dư luận.Văn chương của Nguyễn Minh Châu gắn bó chặt chẽ với những bước đi cơ bản của nềnvăn học dân tộc trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và những năm tháng sau chiếntranh.Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tài năng, luôn đi tìm cái đích của chân, thiện,mỹ, tìm tòi tìm hiểu cho ra lẽ sống của nghiệp văn chương. Ông yêu cầu rất cao về thiênchức người nghệ sĩ, cốt lõi là phải có cái tâm. Ngay từ khởi đầu cầm bút tới lúc hấp hối trêngiường bệnh, Nguyễn Minh Châu luôn có trách nhiệm so với công việc của mình. Khi lànhà văn quân đội, ông rất nhạy cảm với yêu cầu của cuộc sống cách mạng và sau này,ông sớm nhận thấy con đường tất yếu phải đi đến của một nền văn học và đã trở thànhngười lính dũng cảm, kiên trì tranh đấu cho sự nghiệp đổi mới văn học.Những truyện ngắn Nguyễn Minh Châu viết trong giai đoạn trước năm 1975, xéttrong phạm vi mô tả đề tài chung của một giai đoạn lịch sử cụ thể, tác phẩm của ôngchưa thật thành công và đặc sắc như ở thể loại tiểu thuyết, tuy vậy, trong một chừng mựcnào đó, tất cả chúng ta vẫn thấy được cái riêng của một ngòi bút trầm tĩnh, chắc nịch và đầytình người. Với tư cách là nhà văn quân đội, bước chân của ông đi khắp các chiến trường,có mặt hầu hết ở các nhà cung cấp bộ đội. Những trang nhật kí của ông để lại cho thấy ông đãthật sự lăn lộn cùng các chiến sĩ và ghi nhận thực tiễn không chỉ bằng tai, mắt mà bằng cảtrái tim biết chia sẻ, thông cảm. Hàng loạt truyện ngắn được ra đời như tập truyện ngắnNhững vùng trời khác nhau, một số truyện ngắn được in trong Tạp chí Văn nghệ Quânđội như Sau một buổi tập, Gốc sắn, Đất rừng, Trên vùng đất sỏi, Mẩu chuyện trên trậnđịa… Cách tân văn nghệ cao, ông không đi vào lối mòn của lối diễn tả cũ mà khámphá tìm tòi một cách trổ tài mới rất mới mẻ, rất riêng.Vì những nguyên nhân trên chúng tôi chọn Dấu hiệu truyện ngắn Nguyễn Minh Châutrước 1975 làm đề tài tìm hiểu, như một cách ngưỡng mộ về cuộc sống và sự nghiệp củamột con người đi đến ranh giới của sống chết vẫn thiết tha một tình yêu gắn kết với sựnghiệp văn chương, với Tổ quốc, với nhân dân. Lựa chọn đề tài này chúng tôi đặt mụcđích tìm hiểu sâu sắc hơn một hiện tượng văn học, trang bị những tri thức và kĩ năngcần thiết cho việc học.2. Lịch sử vấn đềTruyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết trong thời kì chiến tranh được chọntrong tập Những vùng trời khác nhau và một số truyện ngắn in trong Tạp chí Văn nghệQuân đội. Bước vào con đường viết văn, sáng tác của ông tuy chưa được nhất định nhưcác tác giả cùng thời nhưng ông cũng gặt hái được thành công nhất định.Trong nội dung Đọc Những vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu in trongTạp chí Văn nghệ Quân đội số 9, 1970, Nguyễn Kiên nhận xét: “Ngòi bút Nguyễn MinhChâu chăm chỉ, chừng mực, mộc mạc, chân tình, trang sách nào cũng đều thấp thoáng kỉniệm, truyện ngắn gọn nhưng không bó hẹp” [11]. Tuy nhiên tất cả chúng ta có thể thấyNguyễn Minh Châu có hai cách viết khác nhau khá rõ rệt, xuất phát từ cái thực và kết hợpcái thực với cái kì diệu trong cuộc sống người hùng của nhân dân và quân đội. Và nhậnđịnh trên phần nào nhất định được Những vùng trời khác nhau đã thành công và ghidấu ấn trong lòng người đọc.Nguyễn Thị Minh Thái có cái nhìn khá thực về Ấn tượng về nhân vật nữ củaNguyễn Minh Châu (Tạp chí Văn học số 3, 1985): “Nhân vật nữ đã làm trung tâm vớitính cách mạnh và rõ. Câu chuyện diễn biến theo lời kể, cách dựng truyện thoải mái, tựnhiên, bút pháp miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế” [20]. Với nhận xét trên, nhân vật nữtrong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu được mô tả rất chân thực, mang vẻ đẹp củanhững người hùng chống Mỹ cứu nước trong thời kì chiến tranh.Nội dung Hướng đi triển vọng của Nguyễn Minh Châu đăng ở Tuần báo Văn nghệsố 364, 1970 của Nguyễn Đăng Mạnh và Trần Hữu Tá cho rằng: “Nguyễn Minh Châuhầu như chỉ xây dựng một loại nhân vật tốt đẹp, cao thượng, anh hùng, cái tiêu cực rất ítthấy, nhân vật giàu tình cảm và suy tưởng. Đến nay nhân vật thành công của ông đều lànhững nhân vật có tuổi, để phản ánh hiện thực ngày nay không chỉ giới hạn thế giới nghệthuật của ông trong loại nhân vật đó” [14]. Quả thật vậy, trong nhiều truyện ngắn củaông, nhân vật được mô tả với tư cách người hùng, kiên cường, giàu tình cảm, để lại ấntượng sâu đậm trong lòng độc giả, ông ít đề cập đến những nhân vật tiêu cực.Trong bài Sự tìm hiểu con người Việt Nam qua truyện ngắn đăng trên Tạp chíQuân đội, Hà Nội, số 10, 1987, Ngọc Trai cho rằng: “Phần lớn các truyện ngắn NguyễnMinh Châu là loại truyện luận đề về đạo đức nhân văn, tâm lý xã hội và biểu đạt thôngqua chính cuộc sống chân thật, nhiều chiều, đầy mâu thuẫn, ông có cái nhìn sâu sắc,toàn diện với con người và hiện thực” [24]. Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu luôn đitìm giá trị thật của con người, “cái sợi chỉ xanh óng ánh” trong tâm hồn người, khám phánhững tầng sâu huyền bí, ngạc nhiên trong toàn cầu tâm hồn con người, điều mà Nguyễn MinhChâu luôn trằn trọc suốt đời cầm bút của mình.Mảnh trăng cuối rừng là truyện ngắn được nhiều nhà phê bình nhắc đến và đượcđánh giá chát. Nguyễn Thanh Hùng lại tìm được Nét đẹp và cái hay của Mảnh trăng cuốirừng (Văn nghệ Quân đội, 1994) ở khía cạnh khác, ông cho rằng: “Truyện ngắn này nênquan tâm đến thi pháp truyện kể và hãy bắt đầu với phương thức kể và mỗi yếu tố thipháp trong phương thức kể đều thể hiện kết quả tìm tòi nghệ thuật đầy sáng tạo củaNguyễn Minh Châu” [9, Tr. 103]. Mảnh trăng cuối rừng là một mẩu truyện đẹp đậm màusắc lãng mạn gợi sự tìm kiếm và phát hiện “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người”,điều mà Nguyễn Minh Châu luôn trằn trọc suốt dời cầm bút của mình. Hạt ngọc ấy ôngđặt vào Nguyệt, người con gái đã tạo ấn tượng cho người đọc một sức sống trong trẻo lạkỳ. Vẻ đẹp ấy được soi chiếu ở nhiều điểm nhìn khác nhau. Ngoài tác giả trong vai tròngười dẫn truyện thỉnh thoảng xuất hiện chen giữa mạch chuyện thì chủ thể trần thuật lạilà Lãm, Lãm cũng chính là nhân vật chính trong truyện. Ngôn ngữ trần thuật của Lãm tậptrung mô tả, tái hiện các sự kiện, hiện tượng làm ra diễn biến mẩu truyện.Bùi Việt Thắng khi bàn về Vấn đề tình huống trong truyện ngắn Nguyễn MinhChâu (Tạp chí Văn học số 2/94) lại cho rằng: “Tình huống truyện là một hướng tiếp cậntruyện ngắn của nhà văn. Ông sử dụng ba loại tình huống: tương phản, thắt nút, luận đềđể thể hiện tính tầm cỡ của các tình thế đời sống của con người, hình tượng văn họcmang tính đa nghĩa giúp người đọc nhận thức được quay luật đời sống” [21]. Đôi khitruyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 chỉ là một khoảnh khắc của cuộc sống (mộtcâu chuyện trên trận địa, một mẩu truyện vui của anh lính lái xe, cảnh một con trâu đẻcủa đại đội, mẩu truyện trên vùng đất sỏi), ông tái hiện đời sống khách quan thông qua sựnhận thức, nhận xét, tổng quan, trổ tài mang tính chủ quan của nhà văn, nhà văn phảitập trung phản ánh đời sống, con người qua các biến cố, các sự kiện xảy ra với nó.“Nguyễn Minh Châu rất coi trọng yếu tố chi tiết trong tác phẩm, chi tiết có sứcchuyên chở khá nặng tư tưởng của nhà văn và thái độ bình giá của ông trước một hiệnthực bộn bề, phức tạp. Ở một số tác phẩm ngôn ngữ đã đạt sự chuẩn xác, hài hòa” [12]là ý kiến của Tôn Phương Lan trong nội dung Chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôiđược giải (Tạp chí Văn học số 12/94). Ở truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, cụ thể đóngvai trò trọng yếu, nó góp phần tạo dựng không khí và tình huống, khắc họa tính cách,hành động, tâm lý nhân vật, tạo ra thành công cho truyện ngắn của ông trong thời kìnày.Nguyễn Minh Châu là hiện tượng văn học khá hiếm hoi bởi vì xung quanh sángtác của ông có quá nhiều ý kiến nhận xét khác nhau, thậm chí đối nghịch hoàn toàn. Nhưvậy, tìm hiểu về Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn của ông là đề tài được rất nhiềunhà tìm hiểu quan tâm. Tuy nhiên vẫn còn thiếu những công trình thăm dò một cáchchuyên sâu về dấu hiệu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975.3. Mục đích nghiên cứuTrong một tác phẩm văn học, nội dung và hình thức là hai mặt của của một chỉnhthể thống nhất. Sự hài hòa giữa nội dung và hình thức sẽ làm ra giá trị của tác phẩm vănhọc. Việc tìm hiểu dấu hiệu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 nhằm đi tìmthế giới nội dung và toàn cầu văn nghệ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu để chỉ rasự hài hòa, hợp lý của hình thức văn nghệ mà tác giả đã tạo dựng nên so với nội dungvà tư tưởng tương ứng. Vì vậy, trong quá trình tìm hiểu chúng tôi sẽ làm nổi trội mộtsố phương diện của nội dung và văn nghệ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước1975. Đây là đề tài tương đối mới nên những công trình tìm hiểu, nhận xét trên cũngcung cấp nhiều thông tin quý giá để chúng tôi tiếp cận và làm nền tảng để có hướng điđúng đắn trong quá trình tìm hiểu đề tài đạt được hiệu quả cao hơn.4. Phạm vi nghiên cứuTìm hiểu dấu hiệu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 chúng tôi dành ramột chương để tìm hiểu tổng quan đặc trưng của truyện ngắn và cuộc sống, sự nghiệp sángtác của Nguyễn Minh Châu. Sau đó sẽ đi vào tìm hiểu dấu hiệu truyện ngắn NguyễnMinh Châu trên các bình diện đề tài, đề tài, xúc cảm văn nghệ, toàn cầu nhân vật,văn nghệ xây dựng nhân vật, thời gian và không gian văn nghệ, ngôn từ văn nghệ.Từ những tìm hiểu có tính chất nền tảng đó, chúng tôi sẽ nỗ lực nêu ra những đónggóp của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 trên các mặt nội dung tư tưởng (cảmhứng sử thi người hùng ca, hiện thực của chiến tranh, những thành tựu và hạn chế của côngcuộc xây dựng XHCN ở miền Bắc) và hình thức văn nghệ (sự đặc sắc trong nghệ thuậtxây dựng nhân vật, văn nghệ sử dụng ngôn ngữ, thời gian và không gian văn nghệ…)dựa trên những truyện ngắn đã được xuất bản in trong tập Những vùng trời khác nhau vàin trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội của Nguyễn Minh Châu:-Nguồn suối-Nhành mai-Những vùng trời khác nhau-Chuyện đại đội-Người mẹ xóm nhà thờ-Mảnh trăng-Sau một buổi tập-Gốc sắn-Đôi đũa trúc-Trên vùng đất sỏi-Những hạt thóc lép-Mẩu chuyện trên trận địa-Vừng sáng ở chân trời.5. Phương pháp nghiên cứuĐể thỏa mãn yêu cầu luận văn đặt ra trong quá trình tìm hiểu đề tài chúng tôi đãsử dụng tổng hợp nhiều phương pháp tìm hiểu khác nhau:Trên nền tảng vận dụng phương pháp hệ thống tìm thấy những mối quan hệ và nhữngtác động của các hiện tượng, các thành tố trong một hệ thống, tìm hiểu toàn cầu nghệthuật phải lưu ý trước hết đến hệ thống các yếu tố hình thức của tác phẩm.Phương pháp phân tích để chia tách, phân loại nhân vật, không gian, thời giannghệ thuật trong các truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 để làm nổi trội giá trịnội dung và văn nghệ của tác phẩm.Phương pháp tổng hợp giúp chúng tôi sàn lọc, tổng hợp nhiều tư liệu về nhà văncũng như những truyện ngắn đã qua quá trình phân tích để nhìn nhận đúng đắn hơn vềtruyện ngắn trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu.Phương pháp so sánh là phương pháp chính nhằm làm nổi trội sự khác biệt củatruyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 so với các nhà văn cùng thời trên cácphương diện: xúc cảm văn nghệ, phương pháp sáng tác…. Những phương pháp này sẽgiúp chúng tôi vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình tìm hiểu để triển khai bàiviết được mạch lạc qua đó làm sáng tỏ đề tài tìm hiểu.PHẦN NỘI DUNGCHƯƠNG I: TRUYỆN NGẮN – KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM;TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM1.1 Truyện ngắn – khái niệm và đặc điểm1.1.1 Khái niệm truyện ngắnKhái niệm truyện ngắn là một vấn đề mà nhiều nhà tìm hiểu còn thắc mắc và chưathống nhất với nhau. Vì vậy, trong phạm vi đề tài tìm hiểu này chúng tôi xin mang ramột số nhận định và ý kiến của một số nhà văn, nhà tìm hiểu trong và ngoài nước vềkhái niệm truyện ngắn.Trong nội dung Nhìn lại truyện ngắn hiện đại, nhà văn Anh H.E. Bates cho rằng:“Truyện ngắn rất khó định nghĩa vì truyện ngắn có thể là bất cứ thứ gì mà tác giả quyếtđịnh, từ tĩnh tại, không cốt truyện, từ bài thơ ở dạng văn xuôi, được vẽ chứ không phảiđược viết, từ ánh sáng phát ra tia rực rỡ của cảm xúc không thể nắm bắt được đến mộtcâu chuyện chặt chẽ trong đó cảm xúc, hành động, phản hành động đều được đo đạc, cốđịnh, gắn chặt, đánh bóng và hoàn thiện như một ngôi nhà được xây kĩ, sơn ba lớp bóngnhoáng và bền” [23, tr. 11]. Ở đây nhà văn cho rằng chưa có một khái niệm cụ thể, đầyđủ cho thể loại truyện ngắn mà còn lý giải ở nhiều khía cạnh khác nhau chưa định hình rõvề thể loại.Nhà văn Nga K. Pauxtopxki cũng có một khái niệm về truyện ngắn, gắn với địnhnghĩa của Goethe: “Thật chất truyện ngắn là gì? Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là một truyệnviết ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái bình thường và cái gìbình thường hiện ra như một cái không bình thường” [17, tr. 105]. Như vậy các tác giả vànhà tìm hiểu đều thừa nhận yếu tố dị thường, kỳ lạ gây ngạc nhiên và mê hoặc đối vớingười đọc là đặc trưng đa số của truyện ngắn hiện đại.Theo nhà văn Mĩ U.Xaryoan: “Truyện ngắn là một thể tài văn học sinh ra một cáchtự nhiên, từ những câu chuyện hằng ngày, những câu đùa, những lời trêu chọc của ngườinày, người nọ, người kia. Nó hết sức dẻo dai để thích hợp với những biến động trong cảmhứng, cũng tức là tải được mọi sắc thái tài năng của người kể chuyện” [18, tr. 104]. Nhưthế, nhà văn cho rằng truyện ngắn tạo dựng từ những mộc mạc của đời thường mà ta cóthể cảm nhận và khéo léo pha một tí sáng tạo thì có thể tạo ra phong thái sáng tácriêng cho một tác giả.Theo nhà văn Nguyễn Công Hoan thì: “Truyện ngắn không phải là truyện, mà là mộtvấn đề được xây dựng bằng chi tiết và sự bố trí chặt chẽ và bằng một thái độ với cách đặtcâu có cân nhắc” [8]. Có nghĩa là truyện ngắn được viết bằng cụ thể và các cụ thể ấykết hợp chặt chẽ với nhau tạo ra xúc cảm, sự thống nhất tạo ra một tác phẩm.Một trong những xác nhận súc tích và khá chuẩn về truyện ngắn là khái niệm củaLại Nguyên Ân trong Từ điển văn học: “Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ,thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống, conngười và xã hội. Truyện ngắn khác với truyện vừa và truyện dài – vốn là những thể tàimà quy mô cho phép chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự toàn vẹn, đầy đặn của nó –truyện ngắn là nhằm khắc họa một hiện tượng, phát hiện một đặc tính trong quan hệ conngười hay trong đời sống tâm hồn con người” [1, tr. 10].Nhìn chung, hầu hết các công trình tìm hiểu trong và ngoài nước đều mang ra cáchnhìn đa chiều về khái niệm truyện ngắn. Từ những nhận định trên, chúng tôi có thể đưara một khái niệm tổng quan về truyện ngắn: truyện ngắn là tự sự cỡ nhỏ, nội dung thể loạicủa truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống, đời tư, thế sự hay sử thi,nhưng cái mới mẻ của nó là ngắn gọn. Nó chỉ là một đoạn đời nhân vật một lát cắt, mộthiện tượng xã hội, một khoảnh khắc nội tâm của con người thông qua lăng kính của nhàvăn. Bởi truyện ngắn được viết ra để đọc liền một mạch, tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưaphải là dấu hiệu đa số phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự loại khác.1.1.2 Dấu hiệu truyện ngắnTruyện ngắn là một thể loại của loại hình tự sự. Nó thường là các mẩu truyện đượckể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu truyện dàinhư tiểu thuyết. Thông thường truyện ngắn có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang,vì thế ta có thể hiểu về dung tích truyện ngắn theo Bùi Việt Thắng đã mang ra nhận địnhnhư sau: “Lớn – nhỏ, nhiều – ít, quá trình – kết quả, đa tuyến – đơn tuyến, toàn cảnh –cận cảnh, diện – điểm…” [22, tr. 73].Tình huống truyện luôn là vấn đề trọng yếu vị trí thứ nhất của văn nghệ truyện ngắn.Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một tình huống, một đề tài nhất định do đó,truyện ngắn thường hết sức hạn chế về nhân vật, thời gian và không gian trong truyệnngắn cũng không trải dài như tiểu thuyết. Thỉnh thoảng truyện ngắn chỉ là một khoảnh khắccủa cuộc sống, nó tái hiện đời sống khách quan thông qua sự nhận thức, nhận xét, kháiquát, trổ tài mang tính chủ quan của nhà văn, nhà văn phải tập trung phản ánh đời sống,con người qua các biến cố, các sự kiện xảy ra với nó. Truyện có ngắn nhưng không thểngắn hơn cái mức người ta có thể hiểu ý đồ của tác giả. Về nội dung, truyện ngắn có thểkể về cả một cuộc sống, một sự kiện hay một khoảnh khắc trong cuộc sống nhân vật.Trong tập truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mô tả về cuộc sống của người phụnữ Tây Bắc nghèo khổ với niềm thông cảm sâu sắc nhân vật Mị, một cô dâu gạt nợ đangchết dần chết mòn, bị đày đọa về thể xác lẫn trí não giữa địa ngục nhà thống lý Pá Tra,nhưng người phụ nữ ấy vẫn có sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Hay cuộc sống của Chí Phèotừ khi sinh ra đã bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, được người ta nhặt về nuôi, lớn lên đi ở chonhà Bá Kiến, bị đẩy vào tù do mưu mô thâm độc của Bá Kiến, sau thời điểm được ra tù trở vềlàng Vũ Đại với cái vẻ lưu manh bất cần đời, gặp Thị Nở sau đó bị từ chối, cự tuyệtquyền làm người đến chết chóc giải thoát. Tóm lại, truyện ngắn có nội dung phản ánhnhững giá trị cuộc sống khá hiện thực, trổ tài được cách nhìn của nhà văn về khía cạnhcon người, đời sống khá đầy đủ.Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một toàn cầu thì mỗi nhân vật của truyện ngắn làmột mảnh nhỏ của toàn cầu ấy. Có nghĩa truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắchọa những tính cách đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật củatruyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặctrạng thái tồn tại của con người. Vì thế nhân vật là một phương tiện rất trọng yếu củatruyện ngắn. Ở các truyện ngắn đặc sắc, khi nào các tác giả cũng xây dựng những nhânvật điển hình như AQ ( AQ chính truyện – Lỗ Tấn), Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao),tướng Thuấn (Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp), Lãm và Nguyệt (Mảnh trăng cuốirừng – Nguyễn Minh Châu). Nhân vật còn trổ tài rất rõ phong thái của nhà văn, thôngqua nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) với cái tài viết chữ đẹp, con chữ ở đây khôngchỉ là những kí tự thông thường mà gắn với cả một văn nghệ thư họa truyền thống, mộtthú chơi thanh tao của người xưa. Có thể nói Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất trong đời văncủa Nguyễn Tuân, Huấn Cao đã bộc lộ ý kiến thẩm mỹ của nhà văn đó là cái đẹpphải gắn liền với cái thiện, chữ tài phải gắn với chữ tâm. Nam Cao xây dựng kiểu conngười trí thức như Hộ trong Đời thừa, đó là bi kịch của một nhà văn giàu khát vọng cóhoài bão to lớn nhưng bị gánh nặng cơm áo ép xuống phải chịu đựng một cuộc sống vôích “đời thừa”, bi kịch coi tình thương là phép tắc sống nhưng lại vi phạm vào lẽ sốngtình thương, mang nặng ý kiến văn chương của Nam Cao về nghề văn – là một nghềcao quý, nhà văn phải có lương tâm và trách nhiệm với cuộc sống. Truyện ngắn Vợ nhặtcủa Kim Lân hiện lên hình ảnh bà cụ Tứ, anh Tràng, thị – những con người nghèo khổtrên cái nền của nạn đói 1945. Là Chiến và Việt trong Những đứa con trong gia đình củaNguyễn Thi, những đứa con miền Nam giàu lòng yêu nước, căm thù giặc và tình nguyệncầm súng đấu tranh. Tuy nhiên, mỗi hành động, tính cách nhân vật đều toát lên một ýnghĩa riêng giúp cho người đọc nhận thấy một điều gì đó trong cuộc sống góp phần làm nênthành công của truyện ngắn.Cốt truyện của truyện ngắn thường niên trong một thời gian, không gian hạn chế,tính năng của nó nói chung là nhận thấy một điều gì đó sâu sắc về cuộc sống và tình người.Theo Phương Lựu trong giáo trình Lí luận văn học, cho rằng: “Cốt truyện thực chất làcái lõi diễn biến của truyện từ xảy ra cho đến kết thúc” [13]. Còn theo Lại Nguyên Ân:“Cốt truyện là sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố trong tácphẩm” [1]. Nhìn chung, các tác giả đồng tư tưởng cho rằng cốt truyện là kể về biến cố,trình tự sự việc theo trật tự nhất định có mở màn và kết thúc. Nhà văn Nguyễn Minh Châucho rằng: “Cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi ở người viết một công việc tổ chứcvà cấu trúc truyện ngắn hết sức nghiêm ngặt. Quả thật có một thứ kĩ thuật tinh xảo – kĩthuật viết truyện ngắn . Nó giống như kĩ thuật của con người làm pháo, dồn nến tư tưởngvào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [2, tr. 25]. Vì vậy, sự mê hoặc của cốttruyện trong truyện ngắn chính là tái hiện cuộc sống, ấn tượng sâu đậm về cuộc sống vàtình người. Trong khi cốt truyện của truyện ngắn Nam Cao thường lưu ý tới đời sốngngười nông dân, nông thôn Việt Nam trước 1945 thì Vũ Trọng Phụng lại đi vào cái xã hộinửa phong kiến thời Pháp thuộc. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng,nhiều tuyến mà thường được xây dựng theo phép tắc tương phản hoặc liên tưởng. Bútpháp trần thuật của truyện ngắn thường là chấm phá. Nếu như cốt truyện thuộc về nộidung thì kết cấu thuộc về hình thức, kết cấu có vai trò trọng yếu trong việc thực hiệnthống nhất chặt chẽ giữa đề tài tư tưởng với tính cách nhân vật, tình huống truyện. Tùyvào sáng tác của nhà văn mà có thể có các kiểu kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấutheo tuyến nhân vật, kết cấu tâm lý…Yếu tố trọng yếu vị trí thứ nhất trong truyện ngắn là những cụ thể cô đúc, có dung lượnglớn và lối hành văn mang nhiều ngụ ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Ởtruyện ngắn, cụ thể đóng vai trò trọng yếu, nó góp phần tạo dựng không khí và tìnhhuống, khắc họa tính cách, hành động, tâm lý nhân vật. Nhiều nhà văn đã ra sức tìm mộtkhoảnh khắc đích đáng cho truyện ngắn của mình. Nó có giá trị như một điểm xoáy trongđó nhân vật có thể khơi mở, bộc lộ trọn vẹn tính cách. Truyện ngắn Lặng lẽ Sapa củaNguyễn Thành Long, Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh, Sang sông của Nguyễn HuyThiệp, Những vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu… là những truyện ngắn cóchứa đựng những khoảnh khắc như vậy.Có thể thấy, truyện ngắn có những đặc trưng về hình thức, đề tài, kết cấu, cốttruyện, ngôn ngữ, thủ pháp văn nghệ. Truyện ngắn thường mô tả lát cắt của cuộcsống, một giai đoạn, một khoảnh khắc đầy ý nghĩa tìm hiểu trong cuộc sống nhân vật.Truyện ngắn chỉ tập trung xung quanh một đề tài, không gian và thời gian nhất định vớinhững cụ thể được chọn lọc, cô đúc tạo ra tính hàm súc của ngôn ngữ, tính biểu tượngcủa các nhân vật nhằm dấu hiệu những vấn đề xã hội có tầm tổng quan rộng lớn.1.1.3 Dấu hiệu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1954-1975Văn học giai đoạn 1954 – 1975, một trong những giai đoạn rực rỡ của nền văn họcViệt Nam. Đây là giai đoạn lịch sử ác liệt nhất cũng là giai đoạn văn học gặt hái đượcnhiều hoa thơm quả ngọt. Hiện thực chiến tranh trong hơn 30 năm, xã hội biến động dồndập và con người hiện lên dũng mãnh, khí phách, kiên trung và chứa chan yêu thương.Về lưc lượng sáng tác: Đội ngũ nhà văn đông đảo, nhiệt tình, gắn bó với cuộc sống,luôn có sự tìm tòi thể nghiệm trong sáng tác để tạo ra sự phát triển mạnh mẽ và ngàymột phong phú hơn cho truyện ngắn thời kì này. Ngoài lớp nhà văn trước như NguyễnTuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Công Hoan… nhất là sựxuất hiện của nhiều nhà văn như Vũ Tú Nam, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn MinhChâu, Nguyễn Thi…Về nội dung phản ánh: Hầu hết nhà văn trước 1975 đều quán triệt tư tưởng lấy vănnghệ làm vũ khí như Phan Tứ, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn MinhChâu… Vì vậy hiện thực được phản ánh trong tác phẩm giai đoạn này khá giống nhau.Truyện ngắn thời kì này phản ánh nhiều vấn đề của hiện thực đời sống trong kháng chiếncũng như trong những năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc như Mùa lạccủa Nguyễn Khải, Trở về Hà Nội của Phan Tứ, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành,Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, Chiếc lược ngà của Nguyễn QuangSáng, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu… Các nhà văn trổ tài chủ đềtrong những hướng tiếp cận và lý giải hiện thực cụ thể của riêng mình, khuynh hướngvận động từ cuộc sống nghèo khổ đến ấm no, từ bóng tối đến ánh sáng, từ nô lệ đến giảiphóng, quản lý mình, quản lý quốc gia. Không ít nhân vật trong các tác phẩm là hìnhmẫu từ cuộc sống đấu tranh của dân tộc, ở từng mức độ nhà văn không chỉ phản ánh chânthật cuộc sống sinh động mà còn lý giải những vấn đề đặt ra như cái cũ và cái mới, cánhân và tập thể, tư tưởng về hạnh phúc, tầm nhìn của người cán bộ… trong buổi đầuxây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiếnchống Mỹ, nhiều nhà văn đã có mặt trên mọi trận địa, vừa cầm súng vừa cầm bút đếnchiến trường tìm nguồn xúc cảm sáng tạo, trổ tài khía cạnh khác nhau của đời sốngchiến tranh và đều mang nét đẹp riêng góp phần làm ra vẻ đẹp chung cho truyện ngắngiai đoạn này. Nó đã phản ánh và thỏa mãn kịp thời yêu cầu của thời kì, góp phần cổ vũmạnh mẽ quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong những năm tháng ác liệt đó.Về bút pháp văn nghệ: Ở từng phương diện và mức độ khác nhau, các tác phẩm củacác nhà văn đã trổ tài được một cách thành công sự sàng lọc con người trong cuộc sốngxây dựng và đấu tranh. Bút pháp xây dựng nhân vật ở thời kì này cũng có bước phát triểnđáng lưu ý. Nhà văn lưu tâm hơn trong việc đi sâu vào khai thác nội tâm, đời sống tinhthần của nhân vật. Giọng điệu người hùng, ngợi ca xen lẫn giọng điệu trữ tình, sâu lắng vàđầy sáng tạo với vật liệu ngôn từ giản dị, xây dựng nhân vật qua các chuỗi thời gian,không gian văn nghệ một cách uyển chuyển và văn nghệ khắc họa tâm lý nhân vật sâusắc.1.2 Tác giả và tác phẩm1.2.1 Tác giả Nguyễn Minh Châu1.2.1.1 Cuộc đờiNguyễn Minh Châu sinh ngày 23 tháng 10 năm 1930 trong một gia đình nông dânkhá giả ở làng Thơi thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Là con út trong một gia đìnhcó sáu anh chị em, Nguyễn Minh Châu được tạo điều kiện học hành khá chu đáo. Ônghọc ở quê rồi vào Huế, học tiếp đó năm 1945 khi Nhật đảo chính Pháp thì ông trở về quêthi đỗ bằng Thành Chung. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn MinhChâu tiếp tục học trung học trong vùng kháng chiến. Đầu năm 1950, khi đang là học sinhchuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An, Nguyễn Minh Châu tình nguyệnvào quân đội. Sau một khoá huấn luyện ngắn của trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, NguyễnMinh Châu về sư đoàn 320 làm cán bộ trung đội. Trong những năm từ 1950 đến 1954,Nguyễn Minh Châu cùng nhà cung cấp đấu tranh và hoạt động ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sau1954, Nguyễn Minh Châu tiếp tục phục vụ trong quân đội làm cán bộ tuyên huấn tiểuđoàn. Từ 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sưđoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn MinhChâu về công tác tại phòng Văn nghệ Quân đội, sau chuyển sang Tạp chí Văn nghệ Quânđội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972. Nguyễn Minh Châu qua đờingày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi.Sự xuất thân từ một vùng nông thôn nghèo xứ Nghệ và việc gia nhập quân đội cóảnh hưởng đậm nét đến sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Phần lớn tác phẩmcủa ông khởi phát từ hai mạch xúc cảm là xúc cảm về nông thôn, người nông dân vàcảm hứng về chiến trường, người lính.1.2.1.2 Sự nghiệp sáng tác“Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôiViệt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”[10] (Nguyễn Khải). Với hai quãng đường sáng tác ở hai giai đoạn văn học trước và sau1975, Nguyễn Minh Châu có những đóng góp to lớn cho nền văn học hiện đại. Các tiểuthuyết và truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975 khá tiêu biểu cho nền văn họcthời kì kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt, sau 1975 Nguyễn Minh Châu là một trongnhững “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” [15] (Nguyên Ngọc) của công cuộcđổi mới văn học.Năm 1959, Nguyễn Minh Châu đi dự hội nghị bạn viết toàn quân, 1960 được điềuđộng về cục Văn hóa quân đội, rồi về Tạp chí Văn nghệ Quân đội vừa làm chỉnh sửa vừalàm phóng viên. Tại đây, Nguyễn Minh Châu khởi đầu viết văn và cho in những truyệnngắn đầu tay nhưng chưa gây được sự lưu ý. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châuchỉ thật sự được nhất định trong thời kì kháng chiến chống Mỹ với hai cuốn tiểuthuyết Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn Những vùngtrời khác nhau (1970). Nguyễn Minh Châu đã có nhiều chuyến du ngoạn thực tiễn chiến trường,từ Quảng Bình, Vĩnh Linh đến đường 9 Nam Lào và nhất là chiến trường Quảng Trị- nơi diễn ra nhiều chiến dịch hết sức quyết liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Lànhà văn quân đội, Nguyễn Minh Châu đã phản ánh kịp thời những hình ảnh sinh độngcủa cuộc đấu tranh và hình tượng cao đẹp của những con người Việt Nam thuộc nhiềuthế hệ. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và suy ngẫm về nhiều vấn đề của đời sống xãhội và số phận con người ngay trong chiến tranh, được ông ghi lại trong nhiều trang sổtay và sau này sẽ trở thành những vấn đề chủ đạo trong sáng tác thời hậu chiến của chínhông.Ngay sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận thấy những hạn chế của nềnvăn học thời chiến tranh. Ông đã thầm lặng nhưng dũng cảm và kiên định tìm kiếm conđường đổi mới sáng tác của chính mình. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1977: Miềncháy, Lửa từ những ngôi nhà đã mang lại một sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn.Những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ra mắt độc giả ở nửa đầu những năm 1980thực sự là những tìm tòi mới, với cái nhìn mới về hiện thực và con người, khiến NguyễnMinh Châu trở thành một trong những người mở đường tinh anh và tài năng nhất củacông cuộc đổi mới văn học. Nhiều tác phẩm ra đời như truyện dài Người đàn bà trênchuyến tàu tốc hành (1983), truyện ngắn Bến quê (1985), truyện ngắn Cỏ lau (1989) vàmột số tiểu thuyết Những người đi từ trong rừng ra (1982), Vùng đất tình yêu (1987).Khi quá trình đổi mới quốc gia được chính thức phát động, Nguyễn Minh Châu nhiệtthành và đầy tâm huyết với quá trình đổi mới nền văn học nước nhà, vừa bằng nhữngphát biểu trực tiếp, mạnh mẽ, vừa bằng những sáng tác đã đạt đến độ sâu sắc của tư tưởngvà sự kết tinh văn nghệ cao.Không chỉ trong sáng tác, ông còn để lại đấu ấn cá nhân qua những trang tiểu luận,phê bình hết sức sâu sắc suốt quãng thời gian dài, sau này được tập hợp lại trong cuốnTrang giấy trước đèn. Các bài tiểu luận của ông đã đề cập đến nhiều phương diện trongquá trình văn học: Tác dụng của văn học, mối quan hệ giữa văn học và đời sống chiếntranh cách mạng, mối quan hệ giữa nhà văn – nhân vật – độc giả, vai trò và trách nhiệmcủa người cầm bút, chân dung nhà văn, kinh nghiệm sáng tác… Những nội dung của ôngcũng đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ra một không khí sôi nổi trong đời sống vănhọc những năm cuối thế kỉ XX, đồng thời giúp người đọc hiểu thêm về con người vàsáng tác của ông, một trong những nhà văn tiên phong quá trình đổi mới văn học.Nhưng số phận nghiệt ngã với chứng bệnh hiểm nghèo ung thư máu đã khiến hànhtrình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu phải đột ngột dừng lại khi vừa đạt tới độ chín củatài năng. Ngày 23 tháng 1 năm 1989 Nguyễn Minh Châu trút hơi thở cuối cùng tại việnquân y 108 Hà Nội, sau gần một năm đương đầu với bạo bệnh, để lại nhiều dự định sángtác còn đang ấp ủ. Tác phẩm cuối cùng – truyện vừa Phiên Chợ Giát – được hoàn thànhngay trên giường bệnh trước đó không lâu.1.2.2 Giới thiệu một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu đã dành trọn vẹnnửa đời văn của mình đi sâu, tìm hiểu, phản ánh hiện thực chiến tranh và người lính.Truyện ngắn trước nhất Sau một buổi tập được in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm1960 đánh dấu bước đi trước nhất của ông. Tập truyện ngắn Những vùng trời khácnhau (1970) gồm bảy truyện ngắn, đa số được viết trong những năm đầu chiến tranhchống Mỹ. Toàn bộ đều là những mẩu truyện, những hình ảnh trong chiến tranh. Cùng vớihình ảnh người lính như anh du kích chống Pháp (Ngạn), người lính pháo thủ (Lương),anh chiến sĩ cao sạ (Sơn, Lê), anh lính láy xe (Lãm), thì đậm nét hơn cả lại là một số nhânvật nữ như Thận (Nhành mai), Bà mẹ Lân (Bà mẹ xóm Nhà thờ), Nguyệt (Mảnh trăngcuối rừng). Ở tập truyện ngắn đầu tay này, ngòi bút tác giả chưa phải đã thật sự già dặntrong văn nghệ kể chuyện, tổ chức kết cấu, tạo tình huống. Một số truyện còn được xâydựng theo mạch kể chuyện khá đơn giản. Đặc sắc hơn cả là truyện Mảnh trăng (về sau,khi in trong tuyển tập truyện ngắn có tên là Mảnh trăng cuối rừng). Mảnh trăng cuốirừng là truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Minh Châu trong những năm chống Mỹ.Truyện khá tiêu biểu cho những dấu hiệu bút pháp của nhà văn trong giai đoạn trước1975 và cũng mang những dấu hiệu chung của văn học ta giai đoạn ấy. Truyện ngắn nàyđã được mang vào nhiều tuyển tập truyện ngắn Việt Nam và được nhà phê bình N.I.Niculin giới thiệu trong Trận chiến tranh giải phóng và truyện ngắn Việt Nam hiện đạivà nhận xét: “Niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, cái thiện đãđược khúc xạ ở chỗ, anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như đượcbao bọc trong một bầu không khí vô trùng…” [19]. Và có thể thấy sự đổi mới này trênmảng hiện thực thân thuộc nhất của ngòi bút Nguyễn Minh Châu – chiến tranh cáchmạng và người lính. Mười hai truyện ngắn được in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội từnăm 1962 đến năm 1964 là những truyện ngắn viết trong khoảng thời gian hòa bình ngắnngủi ở miền Bắc, người bộ đội, nhân vật chính trong truyện của Nguyễn Minh Châu vẫnsôi sục trí não tiền tuyến, luyện tập tốt, nghiêm khắc với bản thân như Bình, Sinh, TrầnViệt, An, Thoa… trong Buổi tập cuối năm, Gốc sắn, Trên vùng đất sỏi, Đôi đũa trúc…Theo hướng tiếp cận hiện thực mới mẻ này, sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã gópphần phát xuất hiện những quy luật vận động sâu kín của đời sống nhân sinh thế sự và đạttới một chiều sâu nhân bản mới.CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮNNGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 19752.1 Hiện thực chiến tranh trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975Giai đoạn văn học 1945-1975 ra đời trong hoàn cảnh quốc gia chiến tranh, một giaiđoạn lịch sử có nhiều khó khăn, khổ sở, tàn khốc với nhiều mất mát, hy sinh và cũng cókhông ít chiến công vĩ đại. Và chính hoàn cảnh lịch sử đó đã tạo ra một nền văn học cáchmạng đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, đóng góp lớn vào quá trình kháng chiến giảiphóng quốc gia và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hiện thực trong văn chương lúc bấy giờ lànhững trận đánh, những sự kiện, những vấn đề to lớn của dân tộc và quốc gia, hìnhtượng cơ bản con người tập thể gắn với mối quan hệ cộng đồng, giai cấp. Nguyễn MinhChâu đã phản ánh hiện thực của cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách sinh động thôngqua sự phối hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn.2.1.1 Những khó khăn khổ sở trong chiến tranhCuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 là một bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử dântộc ta, mở màn cho kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc. Chưa được bao lâu thì Pháp quaytrở lại đánh chiếm miền Bắc, quốc gia phải chìm trong máu lửa của chiến tranh. ĐánhPháp xong thì giặc Mỹ lại tràn tới, ba mươi năm, dân tộc ta liên tiếp tiến hành hai cuộckháng chiến chống Pháp và chống Mỹ để bảo vệ độc lập tự do và thống nhất nước nhà.Với cuộc kháng chiến chống Mỹ, thực tiễn “ra ngõ gặp anh hùng” đã mang lại cho nhà vănnguồn tư liệu dồi dào, nguồn xúc cảm vô tận trong sáng tác. Viết về tội ác của bọn đếquốc Mỹ và bè lũ tay sai, nhưng hơn toàn bộ, nhà văn muốn tập trung ca tụng chủ nghĩa anhhùng, ca tụng những con người đã đấu tranh vì tổ quốc, vượt qua thực tại đau thương,đầy khổ sở vẫn hướng về tương lai, tin tưởng quốc gia sẽ có ngày hòa bình.Hiện thực của cuộc kháng chiến chống Mỹ trong hơn ba mươi năm với biết bao ácliệt, hầu hết các nhà văn thời kì này đều lấy văn nghệ làm vũ khí, đề tài chiến tranh đã trởthành vùng đất đầy hứa hẹn để các nhà văn khai thác và tìm hiểu những phẩm chất anhhùng của nguời Việt Nam đồng thời cũng trổ tài lòng yêu nước của người chiến sĩ cầmbút so với Tổ quốc, với nhân dân và nhiều tác phẩm đã ra đời: Sống mãi với thủ đô(Nguyễn Huy Tưởng), Quốc gia đứng lên (Nguyên Ngọc), Gia đình má Bảy (Phan Tứ),Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Những vùng trờikhác nhau (Nguyễn Minh Châu)…Hiện thực chiến tranh là hiện thực ngổn ngang, ngỗn ngang với bề nổi và cả bao lớptrầm tích bên trong. Các trang sách chỉ mới là một phần rất nhỏ về trận chiến chống Mỹvô cùng phức tạp và khổ sở của cả dân tộc. Những khó khăn, khổ sở trong khángchiến đã được Nguyễn Minh Châu mô tả hết sức sinh động. Những khó khăn, gian khổtrong đấu tranh, những trận chiến tranh phá hoại của địch mở rộng nhanh chóng, nhữngtrận càn thuộc máy cất cánh trên khung trời mù mịt khói đạn hay những đợt ném bom bắn phá ácliệt của bọn giặc trên quê hương “thỉnh thoảng từ mạn bờ biển bỗng rộ lên tiếng xèn xẹccủa động cơ phản lực rồi vụt biến mất. Ở đây người ta trông thấy cuộc chiến tranh rõhơn ở những đoàn xe quân sự vấy bùn lấm láp, lá ngụy trang xù ra chạy suốt đêm trênđường” [3, tr. 97]. Con người cảm thu được chiến tranh đang đến và mang theo bao khókhăn để con người đối mặt và vượt qua. Nguyễn Minh Châu đã mô tả cái xóm nhà thờnhỏ nằm sâu hun hút, chẹt trong khe núi cũng bị bọn giặc ném bom và bắn phá, cuộcchiến tranh xuất hiện sắc nét hơn với những đoàn xe quân sự chạy ầm ầm trên đường, nhiềutốp máy cất cánh địch ngạc nhiên lao tới, trận đánh ở cái xóm nhà thờ này xảy ra rất nhanh và rấtác liệt: “Bên kia sông, từ xóm nhà thờ vẳng lên tiếng thét, tiếng la khóc và lửa đỏ cháybừng bừng; một cụm khói đen như cái nấm trùm kín cái xóm nhỏ” [3, tr. 109]. Chiếntranh với những khó khăn trước mắt cần khắc phục là chống lại những mưu mô, nhữngcuộc càng quét, hay những trận đánh ngầm của giặc “địch quay tròn trên đầu như xaylúa, rất thấp, thả pháo sáng và bắn hai mươi ly” [3, tr. 130]. Người lính phải đối mặt vớibọn giặc trong khi chưa chuẩn bị gì cả: “Cuộc chiến đấu diễn ra ở từng ngã ba, khu nhà,góc phố giữa lúc giấc ngủ của nhân dân đang ngon lành nhất” [4, tr. 564], chúng takhông biết khi nào giặc tới, không biết trước được bọn chúng sẽ vận dụng lối tác chiến gìnhưng những người lính của ta vẫn quyết tâm sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Trong Câuchuyện trên trận địa, trước những khó khăn mà những pháo thủ phải đương đầu với kẻthù, họ đều vượt qua, biết bao nhiêu đợt đấu tranh quyết liệt với từng tốp máy cất cánh từ biểnxô vào định đập vỡ cái đài xem xét, những pháo thủ phải chịu “cát bám thành từng lớpdày trên mũ, trên lông mày và trên quân phục đã ướt đẫm của các chiến sĩ” [4, tr. 761].Tiếng máy cất cánh của Mỹ tương tự như lời đe dọa của tên cầm đầu nước Mỹ, mỗi lúcmáy cất cánh kéo đến một đông nhưng đều bị các pháo thủ tiêu diệt.Những khó khăn khổ sở không chỉ có trong những lúc đối mặt với kẻ thù mànhững lúc hành quân, lúc luyện tập, người lính cũng gặp phải những khó khăn ấy. Nhữngngày kháng chiến vô cùng thiếu thốn và khổ sở, những người lính như Bính “phải chianhau cùng các chiến sĩ từng hạt ngô rang vấy máu của các đồng chí đã hy sinh, ăn cầmhơi để leo đá tai mèo truy kích địch” [4, tr. 602]. Không chỉ Sơn mà những pháo thủ(Những vùng trời khác nhau) bị bom đạn, bùn đất và gió Lào làm gương mặt sắt lại, gòmá sạm nắng, những lúc ngồi trên mâm pháo với đủ thứ “doanh cụ” nào là chồng látgiường, vải bạt, nồi niêu, gà chó và hàng trăm thứ tạp nhạp, những cuộc hành quân từvùng này sang vùng khác, con đường xuyên qua Trường Sơn trong những ngày mưa dầmvà giá rét, thỉnh thoảng vượt qua cơn gió Lào gay gắt hay những trận mưa rừng càng tạo thêmnhiều khó khăn khổ sở cho những người lính. Đồng chí Bẩm với công việc lặng lẽ vàđầy nguy hiểm: “Anh len lỏi vào tận các vùng Cầu Hai, Lập An để gây dựng phong trào,chuẩn bị cơ sở cho bộ đội về. Những trận phục kích những đoàn tàu sơn đen chở binhlính Âu Phi chật nít từ Huế vào Đà Nẵng và từ Đã Nẵng vào Hội An bắt đầu từ nhữngcông việc kiên nhẫn và lặng lẽ” [4, tr. 766], việc chuẩn bị một trận đánh có khi mất mộtvài tháng hay hơn, có đồng chí bị hy sinh, nhưng diễn biến trận đánh chỉ trông chớp mắt.Đó là những khó khăn, khổ sở nhưng với ý chí quyết tâm của mình thì những ngườilính có thể vượt qua một cách dễ dàng và tin tưởng vào một tương lai tươi sáng phíatrước.Trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, một lần nữa tất cả chúng ta càng thấy rõ cuộcsống khốn khổ của con người trong hoàn cảnh chiến tranh, những khó khăn khổ sở ấylại tạo ra cái nền để những nhân vật hiện lên một cách rực rỡ hào hùng.2.1.2 Những mất mát, hy sinh trong cuộc chiếnChiến tranh không chỉ có vinh quang, hay tranh đấu vì chính nghĩa, chung quy lạithì chiến tranh là sự chết chóc, sự hủy diệt, mất mát và đau thương. Chiến tranh đã cướpđi người thân, gia đình, tuổi trẻ, tình yêu và cả nhân tính. Những trận chiến, những cáichết trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu không phải mô tả trong những sự kiện,những chiến dịch, nhũng trận đánh mà nó hiện lên trong hồi ức của từng nhân vật vàchiến tranh đi qua để lại biết bao mất mát đau thương và nỗi buồn vô tận, khôn nguôi.Chiến tranh vẫn cứ theo quy luật của nó, chiến tranh là sự tàn phá kinh hoàng, là sự hysinh, tổn thất to lớn, là máu và nước mắt, sự chia tay của mỗi cá thể, mỗi gia đình và toànxã hội.Cái tàn bạo của trận chiến xuất hiện khi nó tước đi sinh mạng con người và kinhkhủng hơn là việc nó ám ảnh nhũng người còn sống. Chết chóc trong chiến tranh dườngnhư vẫn hiện diện trong tâm thức của mỗi con người, vết thương da thịt theo năm thángcó thể lành, còn vết thương tâm hồn của con người vẫn mãi hằn sâu. Những ám ảnhkhủng khiếp về trận chiến, về sự mất mát, hy sinh ngày nào vẫn còn đeo bám họ mộtcách dai dẳng. Chiến tranh, nghe có vẻ hào hùng, oanh liệt, nhưng có ai biết rằng bêndưới vẻ đẹp rực rỡ, lịch lãm của những chiến công kia là biết bao nỗi đau và sự hysinh to lớn. “Cái hoàn cảnh địch hậu mà tất cả sự tàn ác dã man của quân giặc gieo tangtóc thương đau lên những con người và mài sắc họ từ những người bình thường trởthành anh dũng bất khuất” [4, tr. 536]. Những ngày gian truân, nước sôi lửa bỏng đượckể lại bởi người mẹ nhìn thấy toàn bộ về sự tàn bạo của bọn giặc ác ôn. Chúng lùng sục,bắt bớ, tra tấn một cách tàn nhẫn bố Hạnh. Chúng dùng nhiều thủ đoạn “không biết thếnào cái thằng bá Chương chó má, nó mới biết được đem lính dõng phục ngoài vườnchuối. Gà gáy bố nó vừa đặt chân ra đến vại nước thì nó xông ập vào chộp lấy” chúngđánh đập tra tấn chiến sĩ của ta đến “da cứ thâm sì, quần áo chỉ còn một dúm giẻ bê bếtmáu khô đen. Một con mắt trái cứ nhắm cứng lại” [4, tr. 537], chúng tra tấn hơn mộttháng rồi uy hiếp người thân nhưng không khai thác được gì. Hay mẹ Thận bị thằngphòng Nhì dọ dẫm rồi bắt bà lên bốt, đánh đập và giết bà cụ ngay trước ngõ, bên gốc câymai. Bọn chúng tra tấn những người chiến sĩ của ta rất dã man, bọn chúng đâm mười quekim khâu vào mười đầu ngón tay trước khi giết chị Kiên, một cán bộ lãnh đạo phong tràođấu tranh chính trị. Với những mất mát, đau thương mà nhân dân phải gánh chịu thì tội áccủa bọn giặc càng chất chồng. Với những gì mà chiến tranh gây ra, chết chóc, mất mát,đau thương… cái giá của cuộc sống hòa bình luôn là sự hi sinh của cả một lớp người, làchiến công của họ để lại. Chiến tranh không chỉ sản sinh những người người hùng, khôngchỉ có vinh quang mà còn có những mất mát, đau thương, những vết thương hằn sâutrong tâm hồn con người.Nguyễn Minh Châu từng phát biểu: “Ngòi bút của chúng ta sẽ trở nên phản bộinhững người chiến sĩ nếu chỉ biết cái lúc họ vác súng ra mặt trận với một tâm hồn phơiphới mà không biết cái lúc buồn bã, đau đớn, những lúc đói rét, những lúc nằm giữađồng đội chết và bị thương, trong bùn lầy, trong mưa bom, bão đạn… ngòi bút của chúngta sẽ trở nên phản bội mọi người nếu nói rằng những người dân của chúng ta ở hậuphương hoàn toàn no ấm, đầy đủ, những người mẹ tiễn con, những người vợ tiễn chồngra chiến trường với một nụ cười trên môi và trong lòng họ chẳng có gì buồn bã” [2, tr.96]. Trong Người mẹ xóm nhà thờ, chiến tranh đã chia cách tình thân “bọn địch đem línhđến đàn áp và bắt mấy người cầm đầu, trong đó có anh Lân. Chị Lân và hai đứa con đãphiêu bạc đi đâu chẳng biết. Chúng nó giải tán trại và đưa mỗi gia đình một ngã” [3, tr.103], chiến tranh đã chia lìa toàn bộ, chiến tranh đã làm cho những người chồng phải xa vợcon như bố cái Thơm phải ra biển khơi cùng hạm tàu đi lùng địch, như anh hai Chắm bịđày ra Phú Quốc xa xôi, chiến tranh đã chia cắt tình bà cháu, tình mẹ con, tình yêu củanhững người lính để lại những cảnh chia tay, những người phải đi tập kết xa gia đình, vợcon vào giới tuyến vì miền Nam ruột thịt và để lại bao nỗi nhớ xót xa.Tội ác của bọn giặc không khi nào kể hết “mưa nắng, đói rét, bệnh tật, bọn “vệsĩ” canh trại mò hiếp đàn bà, sòng cờ bạc tha hồ mở…” [3, tr. 102]. Cái xóm nhà thờ bịgiội xuống ba quả bom cỡ lớn, nhà mẹ Lân cũng bị ném bom, nhà mẹ Thận bị đốt. Chúngném bom phá những con đường, những cây cầu… “Bọn “khăn xanh, khăn đỏ”, bọn“phong trào cách mạng quốc gia”, bọn “tự vệ hương thôn”, bọn địa chủ, mật thám cũđều ngóc dậy đánh phá nền tảng cách mạng. Bằng mọi hình thức dã man như loài vật, chúngnó đã giết hàng trăm người” [4, tr. 768]. Bọn giặc không từ thủ đoạn để phá hoại cơ sởvật chất của ta và xây dựng nền tảng vật chất phục vụ cho việc khai thác thuộc địa“từ ngàythằng Pháp rút khỏi miền Nam cho thằng Mỹ vào thay chân, dãy cầu tàu trên bến ĐàNẵng được xây to và mở rộng thêm. Lính Mỹ cởi trần mình đầy lông lá tràn ngập hảicảng” [4, tr. 770].Bom đạn chiến tranh là nguyên nhân đã gây ra cho bao số phận con người nhữngnỗi khổ đau tột cùng, những đau thương, mất mát không thể nào đếm xuể, những ngườivợ lìa chồng, những đứa trẻ sớm mồ côi mất đi trụ cột gia đình. Có những nỗi đau khiếncho người ta không thể nói ra chỉ biết dồn nén nước mắt, lặng im trong sự đớn đau rồi tựđối mặt với lòng mình. Con người trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mang nhiều sốphận riêng bi đát, xấu số, mất mát, đau thương. Toàn bộ sự nghiệt ngã đó do chiến tranhgây ra, tội ác của kẻ thù mang lại. Nhưng trong mọi hoàn cảnh khó khăn dù số phận cóphần bi đát nhưng con người vẫn tin tưởng vào cuộc sống và tương lai phía trước.2.1.3 Những thắng lợi của cuộc cách mạngCuộc chiến kịch liệt, trí não đấu tranh, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,thống nhất quốc gia với cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận khi khai thác những mặt tốtđẹp của hiện thực và con người là những điểm nổi trội nhất trong những trang viết củaNguyễn Minh Châu. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu luôn hừng hực không khí lửa đạn,có cái hào hùng của chiến tranh, có cái tươi mát thơ mộng của tình đồng chí, tình yêu đôilứa. Cuộc sống khổ sở của chiến tranh, bom đạn mà vẫn chứa chan tình cảm, tinh thầnlạc quan, niềm tin thắng lợi.Ông chạy đua với cuộc sống để kịp thời phán ánh những vấn đề cấp bách của cuộckháng chiến, ông là nhà văn mặc áo lính, lăn lộn với thực tiễn chiến trường, ông đi nhiềunơi nên có một vốn sống phong phú và kinh nghiệm về chiến trường. Hiểu rõ cuộc sốngcủa người lính, những vất vả, hy sinh của nhân dân trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.Hiện thực chiến tranh đã gây ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn nhà văn cả một dân tộcđánh giặc, vì vậy, những tác phẩm của ông trước 1975 đa số xoay quanh mối quan hệgiữa con người với cộng đồng, con người với dân tộc trên cái nền của chủ nghĩa anh hùngtrong chiến tranh cách mạng. Những trận đánh ác liệt “Sau gần nửa năm, vùng Pa-khenliên tiếp nổ ra những trận đánh phục kích, tập kích nhỏ, làm rung chuyển hệ thống đồn ảicủa quân Pháp và thổ phỉ theo Pháp” [3, tr. 10], không chỉ có bọn Mỹ hung bạo haynhững tên Pháp còn sót lại mà dân tộc ta còn phải đối đầu với bọn thổ phỉ và “Vua Mèo”tay sai của Ngô Đình Diệm và Tưởng Giới Thạch ở các triền núi cao Fan-si-pan và khuvực biên giới. Chính quyền cách mạng huyện biên giới đã có, nhưng riêng đất Pa-khenvẫn còn bị Pháp chiếm đóng. Nhân dân vùng cao vẫn quyết tâm giữ đất, giữ rừng và vùngđất Pa-khen đã là của Việt Nam.Trong việc mô tả một giai đoạn lịch sử ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ,truyện ngắn của ông chưa thật thành công và đặc sắc như tiểu thuyết nhưng trong chừngmực nào đó, truyện ngắn của ông vẫn toát lên cái riêng của một ngòi bút trầm tĩnh, chắcchắn và đầy tình người. Mỗi mẩu truyện đều ẩn sâu trong nó là cả một số phận, cả mộtmất mát của những cuộc sống khác nhau nhưng toàn bộ đã được hòa cùng sự nghiệp chunglớn lao và cao thượng của quá trình kháng chiến cứu nước. Toàn bộ dồn sức lực, trí não, tìnhcảm hướng ra trận địa với niềm tin quyết đấu quyết thắng. Tác giả không trực tiếp pháchọa sự thất bại của Mỹ – Ngụy mà để bọn chúng nhìn và tư duy về trận chiến tranh phinghĩa ở Việt Nam. Đất Pa-khen là đất Việt Nam “mảnh đất này là đất Việt Nam. Anh làchiến sĩ bộ đội Việt Nam. Anh hãy giữ lấy!” [3, tr. 18], với “cái giới tuyến quân sự tạmthời – cầu Hiền Lương – thì Mỹ – Diệm làm sao mà chia cắt được đất nước mình mãi” [4,tr. 622]. Sự khác biệt rõ nhất giữa người lính cách mạng và những kẻ cầm súng bên kiatrận tuyến là thái độ và trí não đấu tranh. Người chiến sĩ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc,vì nhân dân còn bọn chúng chỉ là những kẻ giết người, những con người mù quáng và tànbạo. Ta chính nghĩa, địch phi nghĩa, ta phải thắng lợi, địch phải thua. Với cách nhìnnhư thế nên ông có những trang viết mô tả sôi nổi trí não quyết đấu, quyết thắngcủa nhân dân ta với những thắng lợi vĩ đại.Không chỉ có những thắng lợi của các trận đánh mà còn có cả sự thắng lợi của tinhthần. Trong nền văn học cách mạng này, các tác phẩm văn học đã phản ánh khá chân thậthiện thực cách mạng, xã hội Việt Nam nên mang đậm yếu tố hiện thực. Tuy nhiên, yếu tốlãng mạn cũng làm ra thành công cho những sáng tác của các nhà văn giai đoạn này.Các nhà văn cách mạng không hài lòng với hiện thực và hướng về tương lai để mong ước.Nhân vật của họ mang tính chất phi thường nhưng cũng là con người rất bình thường, thểhiện những tình cảm, nguyện vọng của con nguời thời kì. Đó là những thắng lợi trênmặt trí não. Những ước mong của những ngày hòa bình, những mơ tưởng về một mái ấm,được trở về làng quê khi trên quê hương không còn bóng giặc “một mái nhà gianh mớidựng trên nền đất còn đầy tro than, một bến đò bên đồn địch nườm nượp người qua lại,những gia đình gồng gánh bồng bế nhau tìm về quê cũ, trong sân nhà ai người con gáiđem chiếc áo trắng ra phơi giữa trời nắng…con đường hành quân cứ lên dốc lại vượtđèo” [4, tr. 602], đó là những mong ước rất đỗi bình thường của người lính hay với Bính,hình ảnh người vợ ở quê nhà bỗng xuất hiện và nhớ da diết “trong lòng anh bỗng rộn lênmột nổi niềm mơ ước mới mẻ và vô cùng tha thiết” [4, tr. 611] đó là khát khao cháy bổng,tiếp thêm trí não để người lính làm tốt nhiệm vụ của mình. Con sông Lam thơ mộngvới tiếng mái chèo đò dọc chậm rãi và uể oải, tiếng mái chèo đặc biệt của con sông quêcủa Lê làm Lê trở thành một người mơ mộng thật sự, còn Tiệm bão với Ngàn: “con sôngHương của đất Huế thì thật tuyệt, nước xanh mà lặng như tờ, đêm khuya đi đò dọc mànghe ca Huế thì như cô cũng phải chảy nước mắt ra” [4, tr. 622]. Những dòng sông thơmộng mang nặng nỗi niềm của những con người rời xa quê hương để cùng với nhân dânkháng chiến cứu nước. Những trận chiến tranh bom đạn đầy đau thương, tưởng nhưchôn vùi mọi hạnh phúc. Ta vẫn bắt gặp chất thơ mộng, những tâm tư tình cảm, nguyệnvọng, trí não thắng lợi. Bên cạnh chiến trường đầy khổ sở là những mẩu truyện vềtình cha con, tình đồng đội và cả tình yêu đôi lứa. Một mối quan hệ không thể thiếu trongtâm hồn của mỗi chiến sĩ xung trận, đó là tình yêu lứa đôi. Tình yêu trong chiến tranh tuycó lúc lặng lẽ, lặng lẽ nhưng tận sâu trong trái tim vẫn là những phút rộn ràng, nồngnhiệt. Trên con đường hành quân, những người lính với bao tư duy cứ mãi cất giấutrong đầu những mối tình thơ mộng đành để dành cho ngày thắng lợi, dành cho nhữngquyết tâm trở về. Mẩu chuyện tình yêu tuy chỉ len lỏi trong phút giây ngắn ngủi, như anhKiều muốn nói thật tha thiết, những điều đang sôi nổi trong lòng của Kiều “Ngàn khôngbiết rằng tôi đã yêu Ngàn từ ngày ấy… cái tính rụt rè và dát gái làm cho tôi cứ phảingậm tăm không dám mách bảo với Ngàn một lời để cho đời chị đỡ khổ!” [4, tr. 631].Mối tình Nguyệt và Lãm trong truyện là tình yêu lý tưởng, đó là tiếng nói nhất định tìnhyêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống đấu tranh của lớp trẻ. Tình yêu ấy như một sứcmạnh to lớn không gì tàn phá nổi. Hai lần nghĩ của Lãm về tình yêu như một phép điệpquen thuộc, làm nổi rõ một vấn đề day dứt của con người giữa thời kỳ lịch sử bi thương:“trong tâm hồn người con gái nhỏ bé tình yêu niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống cái sợichỉ xanh óng ánh ấy bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không thể nào tàn phá nổi cũngkhông hề đứt ư?” [3, tr. 119-120]. Đó là sức mạnh của tình yêu, nó mở ra trong lòngngười lính những cảm xức dạt dào, yêu đời, yêu người và trở thành nguồn động lực mạnhmẽ trong đấu tranh.Mỗi sáng tác của Nguyễn Minh Châu viết về chiến tranh nếu không kết thúc là sựthắng lợi của một trận đánh thì cũng là một tia kì vọng vào tương lai tươi sáng của đấtnước. Người đọc không quên trận tập kích thắng lợi trong Nhành mai, hay niềm tin vàotương lai tươi sáng của dân vùng bản Pa–khen qua khả năng lãnh đạo tốt của huyện độitrưởng Ngạn (Nguồn suối), những người lính người hùng, giỏi tác chiến như Lê và Sơn(Những vùng trời khác nhau),… các anh không chỉ làm nhiệm vụ của người lính đanggiữ vững vùng trời của Tổ quốc mà còn thi đua làm tốt nhiệm vụ của những người bạn,hay Lãm và Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng) dù đang tìm kiếm nhau, tưởng khó gặp nhaubởi trở ngại của chiến tranh nhưng kết thúc truyện là hình ảnh “ngoài rừng sâu, đôi chimgọi nhau đã im tiếng, có lẽ chúng đã tìm thấy nhau” [3, tr. 136]. Hình ảnh đó đã tạo niềmtin cho người đọc, rằng họ sẽ tìm được nhau, hạnh phúc cùng nhau và là người chiếnthắng.Hiện thực chiến tranh là hiện thực ngổn ngang, ngỗn ngang với bề nổi và cả bao lớptrầm tích bên trong như Hà Minh Đức đã nhận định: “Thiên hướng khai thác của NguyễnMinh Châu là thuận chiều và một chiều. Tuy có những tổn thất hy sinh nhất định nhưngbộ mặt chiến trường còn thiếu cái ngỗn ngang quyết liệt, đau đớn. Những người lính đềucó gương mặt đẹp, thậm chí có cả cái nết đẹp. Cần phải khai thác thêm nhiều mặt phứctạp khác bên cạnh sự hào hùng của một khối người khổng lồ ngày đêm vật lộn với cáichết. Bộ mặt của kẻ thù cũng chưa được khắc họa rõ nét và thường miêu tả từ xa. Sựchạm trán trực tiếp trong các trận đánh chưa bộc lộ hết bản chất của một đội quân giàutiềm lực quân sự vừa xảo huyệt tàn bạo vừa mù quáng ngây ngô” [5, tr. 64]. Các trangsách chỉ mới là một phần rất nhỏ về trận chiến chống Mỹ vô cùng phức tạp và gian khổcủa cả dân tộc. Những năm 1970, Nguyễn Minh Châu đã nhận thấy sự hạn chế của vănhọc viết về chiến tranh. Trong Trang sổ tay viết văn, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 3 –1971, ông cũng có nhận xét: “Quả thực là những trang viết về kháng chiến chống Mỹcủa chúng ta còn thiếu một cái gì thực là mặt giáp mặt với kẻ thù, với cuộc sống sôi nổi,quyết liệt và khẩn trương đang là nhịp sống chung từ tiền tuyến đến hậu phương trongnhững ngày tháng này. Chúng ta vẫn còn thiếu một cái gì vừa cật lực vừa trí tuệ. Chúngta chưa có tình yêu thương mẹ con, vợ chồng, đồng chí thật lớn của nhân dân trongnhững năm này. Chúng ta cũng chưa có một cái gì thực tế là lạc quan cách mạng khiếnnhân dân hết sức vui sướng trong điều kiện sống vẫn còn gian khổ vất vả. Chúng ta cũngchưa có lòng căm thù giặc đến tận độ khiến mọi người không thể ngồi yên” [2],. TừTrang sổ tay viết văn cho đến những bài tiểu luận như Người viết trẻ và cánh rừng già,ông đã nói lên cảm nhận của mình về cái khoảng cách giữa nhà văn – hiện thực và ngườiđọc “các anh viết về chúng tôi, không nên biến chúng tôi thành những em bé ngây thơhay những con người bằng gỗ biết cử động” [2]. Ông đọc những trang văn thời kì này vàcó cảm tưởng rằng: “Hình như cuộc chiến đấu anh hùng sôi nổi hiện nay đang được vănxuôi và thơ ca đôi khi trán lên một lớp men “trữ tình” hơi dày, thành ra ngắm nó thấymỏng manh, bé nhỏ và óng chuốt quá khiến người ta phải ngờ vực” và ông cho rằng:“Tính chất anh hùng, tính chất lý tưởng có phần nào tách rời hiện thực, không được toátlên từ quá trình sinh thành” khiến cho “cuộc sống kháng chiến vĩ đại và anh hùng củachúng ta khiến thế giới phải khâm phục trở nên bé nhỏ và tầm thường đi” [2]. Với nhữnggì đã làm được cho thấy Nguyễn Minh Châu không hoàn toàn cùng khuôn mẫu vớinhững cây viết văn xuôi chống Mỹ, những tác phẩm của ông đã trở thành một nét đặctrưng rõ rệt, một dòng chảy mạnh mẽ và góp phần tạo ra một cái nhìn mới, toàn diện, cóchiều sâu về hiện thực và con người.2.2 Hiện thực quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong truyệnngắn Nguyễn Minh Châu trước 19752.2.1 Những mặt tích cực của quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miềnBắcCuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc bước vào cuộc sốngxây dựng xã hội chủ nghĩa. Trên nền tảng gắn bó và nhận thức sâu sắc về hiện thực cuộcsống đó, các nhà văn nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực đó để tìm hiểu và sáng tạothành công nhiều tác phẩm. Nhiều mối quan hệ được trổ tài như cái cũ và cái mới, cánhân và tập thể, tầm nhìn của người cán bộ, sự đổi thay của cuộc sống làm ăn tập thể…tiêu biểu có Mùa lạc, Xung đột của Nguyễn Khải, Cái sân gạch cũ của Đào Vũ, Bốn nămsau của Nguyễn Huy Tưởng, Bão biển của Chu Văn, Vụ mùa chưa gặt của Nguyễn Kiên,Sông Đà của Nguyễn Tuân,… Ở từng mức độ, các tác phẩm trên không chỉ phản ánhchân thực, sinh động cuộc sống, mà còn góp phần lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộcsống ở buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Có nhiều vấn đề trong cuộc sốngmà nhà văn nhìn nhận, nhận xét vào thời điểm đó nhưng so với cuộc sống hôm nay vẫncòn mang ý nghĩa thời sự, vẫn là điều thiết yếu phải suy ngẫm thêm. Với thành công trên,các nhà văn trong đó có Nguyễn Minh Châu đã nhất định sự trưởng thành của mìnhtrong quá trình sáng tạo văn nghệ, nhất định được vị trí, sự trưởng thành và đóng gópcủa mình trong quá trình xây dựng cuộc sống mới.Sau chín năm kháng chiến trường kỳ, khổ sở, miền Bắc bị chiến tranh tàn phánặng nề. Điều đặt ra bấy giờ là chuyển hướng xây dựng kinh tế thích hợp với tình hình cóchiến tranh phá hoại, đảm bảo yêu cầu đấu tranh và sẵn sàng đấu tranh, tích cực chi việncho miền Nam, đồng thời vẫn đảm bảo thích hợp với phương hướng lâu dài về côngnghiệp hoá, xây dựng nền tảng vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và lưu ý đúng mứcđến các nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân. Tăng cường nhanh chóng lực lượngquốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình có chiến tranh trong cả nước, ra sức tăngcường công tác phòng thủ để bảo vệ miền Bắc. Nỗ lực hạn chế đến mức thấp nhất sựthiệt hại do địch gây ra và gây thiệt hại cho địch đến mức cao nhất. Tiếp viện cao nhất chomiền Nam để đánh bại các kế hoạch chiến tranh xâm lược của Mỹ trên chiến trườngmiền Nam. Kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức đi đôi với việc chuyển hướngkinh tế và tăng cường quốc phòng cho thích hợp với tình hình mới.Cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc tuy nhiều gian truân vất vả,nhưng mỗi một người đều tràn ngập niềm tin yêu, tự hào về những đổi thay kì diệu trongcuộc sống của dân tộc. Sau thời điểm tiếng súng chiến tranh vừa tắt, những người lính tìnhnguyện của đại đội 24 đã nghe tiếng gọi của Đảng lên đường đi xây dựng khu kinh tế TâyBắc “họ cầm lấy cán cuốc, […], họ kéo nhau lên một quả đồi, bập những nhát cuốc lưuniệm. Dưới mỗi nhát cuốc nặng trịch lật lên một mảng đất mới, họ cắm xuống dưới mỗitảng đất ấy một gốc sắn” [4, tr. 580]. Nương sắn ban đầu chỉ chiếm một vạt đất nhỏ, quabàn tay của những người lính nghĩa vụ, nương sắn đã lan ra khắp đồi, xanh bạt ngàn, sắntrồng trên lưng đồi, sắn mọc dưới lòng khe và có cả trên lưng chừng dốc núi. Nhữngngười lính sau thời điểm cầm súng là cầm cuốc, cằm xẻng xây dựng khu kinh tế Tây Bắc. TâyBắc không chỉ là Tây Bắc, một địa danh cụ thể mà còn là Tổ quốc bạt ngàn, là cuộc sốngrộng lớn của nhân dân trên mọi miền quốc gia đang vẫy gọi, không chỉ riêng Tây Bắc màbất kỳ một vùng đất nào của Tổ quốc, nơi đã để lại rất nhiều kỷ niệm, nhiều tình nghĩayêu thương trong kháng chiến, nơi có cuộc sống cần lao của nhân dân, nơi đang mongđợi những cánh tay và tấm lòng đến để khai phá và xây dựng.Đó là những thay đổi trong cuộc sống của con người, không chỉ về vật chất màcòn về trí não. Trên cái vùng đất sỏi, cuộc sống hòa bình trong doanh trại lại có biếtbao điều vừa thú vị vừa lạ lùng của một tp tráng lệ “trên cái nền đất bằng phẳng,mênh mông, nhìn hút mắt chỉ toàn một màu đỏ của đất đồi mới, lần lược mọc lên hàngchục ngôi nhà ba bốn tầng, những công viên với những hàng cây phượng, ghế đá vàbóng điện mờ tỏ, một khu gia đình với trường mẫu giáo” [4, tr. 678]. Công việc ở doanhtrại cũng có nuôi lợn, chăn bò, trồng cây, bán hàng bách hóa, vỡ đất, tăng gia, làm côngtrường… cuộc sống có vẻ bình thường, người lớn đi làm việc, trẻ con ra nhà trẻ. Có aingờ tới, chính những người lính cũng không ngờ tới những năm tháng hòa bình họ đã lấyvợ và sinh con đẻ cái, họ cũng không biết đời người lính sẽ có ngày chủ nhật trong cáithành phố xa lạ ấy. “Trong những ngày nghỉ, họ được sống bên cạnh người vợ trẻ vànhững đứa con bé nhỏ dưới những mái nhà ấm cúng” [4, tr. 738]. Đó là những gì màcuộc sống mới ở miền Bắc với quá trình đổi mới mới. Cuộc sống hòa bình ở miền Bắcbắt đầu cuả những người lính đã được tác giả dựng lên với biết bao điều mới lạ, từ môitrường sống đến những công việc sau thời điểm tạm gác súng. Đó là những buổi tập, nhữngbuổi huấn luyện tân binh trên thao trường. Những buổi tập vọt tiến của những tân binhvới người lãnh đạo trong Sau một buổi tập là: “Cả buổi tối, buổi trưa tôi phải lao vào việcchuẩn bị huấn luyện cho thật tốt. Từ một động tác đến một khẩu lệnh nhỏ đều phải thànhthuộc và nhớ kĩ” [4, tr. 529], đó là sự chuẩn bị chu đáo cho một đợt huấn luyện mới, cònnhững tân binh thì nỗ lực luyện tập với sức trẻ và sự quyết tâm: “Sau khi ôn động tácnằm xuống đứng dậy, cậu ta chuyển sang phần vọt tiến , chân chạy vòng quanh đốngrơm nhưng mắt vẫn nhìn về phía “địch” và người né nghiêng rất thấp để tránh làn hỏalực” [4, tr. 539], với ý chí quyết tâm của tân binh, không ngại mọi khó khăn, gian khổvẫn tập luyện dưới mọi hình thức. Những buổi tập luyện của đại đội (Chuyện đại đội) vớingười chính trị viên Thoa với những động tác huấn luyện vừa gọn gàng vừa đúng đắn:“Thoa co chân nhảy qua một đoạn hào rồi nâng súng trên hay tay chạy thẳng về hướngđịch. […]. Lúc a chạy qua trước mặt, họ chỉ trông thấy một mảnh lưng né nghiêng, ánhđầu mũi lê hơi loáng lên, và tiếng hô xung phong của Thoa” [3, tr. 93], tiếng thét củaThoa như xé màn sương, tiếng thét quả cảm của một chính trị viên vừa yêu nhà cung cấp, yêuviệc huấn luyện và yêu thương cả những đồng chí của mình. Hay mẩu truyện của một đạiđội với những cụ thể xoay quanh sự ra đời của chú nghé con trong doanh trại , chỉ cómột con trâu tăng gia sản xuất đến ngày đẻ mà cả đại đội cuống cuồng lên:“- Báo cáo thủ trưởng, nó đẻ từ lúc mười một giờ ba mươi phút, đến giờ vẫn chưa ra hếtrau. […]Tôi đã dặn các đồng chí trực nhật đêm nào cũng cắt đủ cỏ cho nó ăn. Thế mà đêm nào nócũng chỉ được một chét không đủ dính miệng. […]Chỉ cần một mình đồng chí Chi ở lại với hai mẹ con con trâu là đủ – Thoa dặn kỹ Chi Con nghé chẳng cần cho ăn ngay. Khi cháo dừ, cậu đổ vào cái chai, đổ dần cho con trâumẹ ăn tất” [3, tr. 83]. Đấy là những cụ thể thân thiện ấm áp tình người, những cảm xúccùng sự quan tâm không chỉ con người dành cho nhau mà còn dành cho con trâu của đạiđội.Người lính không chỉ biết mỗi việc là cầm súng đánh giặc mà còn phải biết làmkinh tế, phải biết tổ chức lại cuộc sống của mình sao cho thích hợp với hoàn cảnh của miềnBắc lúc này và đó là sự đoàn kết cùng nhau xây dựng vùng kinh tế mới. Toàn bộ đã thayđổi: “Doang trại hồi bấy giờ còn lơ thơ mấy căn nhà lợp lá gồi với một chiếc cổng dựnglên bằng những tấm sắt lát sân bay. […]). Những dãy nhà lá cùng với những ngọn đồi đáong đã bị những chiếc máy xúc ụi đi, san bằng địa […] lần lượt mọc lên hang chục ngôinhà ba bốn tầng, những công viên với những hang cây phượng, ghế đá và bóng điện mờtỏ, một khu gia đình với trường mẫu giáo” [4, tr. 678-679]. Cuộc sống mới với nhữngthành tựu của quá trình đổi mới kinh tế xã hội ở miền Bắc đã làm thay đổi diện mạocuộc sống của con người. Cuộc sống thường ngày trong cái tp sau chiến tranhthật sôi động vào những ngày chủ nhật, có biết bao nhiêu chổ tiêu khiển, các cửa rạp hát,các quầy hàng mậu dịch, những gánh hàng thịt bò kho, hàng bánh đa nướng và ngônướng. Cuộc sống thay đổi làm cho nhu cầu của con người thay đổi, ý thức cá nhân cũngcó nhiều thay đổi. Những lời tâm sự của Thoa (Chuyện đại đội) giống như những lời dạyrất thiết thực “tớ thấy các cậu nắm bộ đội thế nào ấy? Anh em chiến sĩ người ta khôngphải là những cái máy, tốt dùng, xấu bỏ. Mình là những người cán bộ biết chỉ huy, nhưngcũng phải biết lãnh đạo. […]. Với chiến sĩ, tôi đề nghị các đồng chí phải rèn kỉ luật thậtnghiêm, nhưng mặt khác phải hiểu thấu tâm tư người ta. Chúng ta phải biết quý conngười. Bây giờ ta ngồi với nhau ở đây nhưng nay mai sẽ ngồi với nhau ngoài chiếntrường. Tôi đã hai thứ tóc trên đầu tôi nghiệm thấy cán bộ chiến sĩ không thương yêunhau thì chiến lược chiến thuật đến đâu cũng đố mà đánh được” [3, tr. 90]. Cái ngàyhôm qua với biết bao khó khăn không cho phép người lính sống dễ dãi với cuộc sốnghiện tại, phải biết yêu thương, chở che cho nhau, giúp nhau sống thật tốt.Nguồn suối và Đôi đũa trúc đề cập đến vấn đề xây dựng chính quyền mới tạinhững bản làng miền núi. Chính quyền cách mạng của huyện biên giới đã được xâydựng, vùng đất Pa-khen và chính quyền mới ở đây với ông Hừng trưởng bản kiêm chứcxã đội trưởng, buổi huấn luyện quân sự đầu năm của dân quân toàn xã biên giới với khíthế tự chủ của một vùng đất biên giới đầy khó khăn khổ sở. Hay quyết sách của cụ Hồmà Bính muốn truyền đạt cho người dân ở bản của Ước, xây dựng chính quyền mới đểngười dân vùng cao có cuộc sống yên ổn, tập trung làm ăn, tăng gia sản xuất. Người dânở đây có thể đến với cách mạng một cách dễ dàng và tự giác hoặc hết sức khó khănnhưng kết quả cuối cùng vẫn là nhất định thắng lợi tất yếu của con đường cách mạng.Bên cạnh nhiệm vụ chống giặc cứu nước, công tác xây dựng chính quyền, hiện thực hóacác quyết sách của Đảng và nhà nước, thu phục lòng dân cũng là nhiệm vụ chính trị hếtsức trọng yếu. Sự đổi đời của Ngàn (Đất rừng) chỉ có thể xảy ra trong hoàn cảnh của cuộcsống mới, trong môi trường đầy yêu thương của anh em đồng đội ở một đội khai hoangnơi công trường Tây Bắc. Những người dân của bản Pa-khen (Nguồn suối) hay bản Mèovùng cao (Đôi đũa trúc) có được tự do, được quản lý cuộc sống mình nhờ giác ngộ đi theoBác, theo cách mạng.Tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã mang lại nhiều mặt tích cực,nó làm thay đổi diện mạo cuộc sống con người, tình đoàn kết giữa quân với dân, giữa cấptrên với cấp dưới gắn kết hơn và mang lại những điều thú vị mới lạ với cuộc sống mới.2.2.2 Một số tồn tại của quá trình xây dựng XHCN ở miền BắcCách mạng tháng Tám thành công, miền Bắc bước vào thời kì hòa bình, bảo vệ,xây dựng và chung tay với miền Nam kháng chiến để thống nhất quốc gia. Song, đó cũnglà lúc tất cả chúng ta phải đối mặt với một tình hình mới đầy biến động, phức tạp và muôn vànkhó khăn, thử thách. Đó cũng là lúc mỗi cá nhân trở về với bản ngã của mình. Họ nghiềnngẫm, suy tư và nhận thức lại nhiều vấn đề trong cuộc sống. Con người khởi đầu suy nghĩvề chiến tranh trên cả hai phương diện được và mất.Khi chiến tranh tạm thời kết thúc, cuộc sống khởi đầu với nhịp sống mới thì cũng làlúc có nhiều nảy sinh. Cuộc sống thay đổi làm cho nhu cầu con người cũng thay đổi,những vấn đề cơm áo, gạo tiền, địa vị xã hội… trở thành những mối lo âu thường trựctrong tư duy của nhiều người. Nạn đói lịch sử của những ngày mùa xuân năm 1945được xuất hiện sắc nét trong Những hạt thóc lép, do quyết sách nhổ lúa trồng đay của phátxít khiến hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói thật nghiệt ngã trong một không gian chếtchóc, không gian xuất hiện với hình ảnh khung trời hẹp và thấp lè tè, những đám mây xámngắt và cáu bẩn, những con đường ngăn ruộng ngập đầy cỏ xước, con đường làng Truồingập rác bẩn và khởi đầu lở lói. “Chẳng có thể gọi họ là người được, những thân gầyguộc, những cái xác ốm đói nhưng vẫn chưa bị thần đói quật ngã hẳn, từng tốp, từng giađình, từng chòm nhỏ một – như những đám mây xám trên nền trời – cứ lũ lượt kéo đitưởng không bao giờ đứt” [4, tr. 706]. Cái đói đã làm thay đổi toàn bộ, mọi người sốngtrong cảnh đói như thân tàn ma dại. Tiến trình xây dựng XHCN chỉ mới khởi đầu vớinhững khó khăn và còn nhiều tồn tại chưa thể khắc phục một sớm một chiều được.Đối mặt với hiện thực đời thường, ý thức cá nhân trong mỗi con người được thứctỉnh, đòi hỏi phải được thỏa mãn, được quan tâm. Nhà văn có cái nhìn đa chiều để đào sâuphát hiện những mạch ngầm huyền bí trong toàn cầu trí não của con người, những khoảngtối khuất lấp, “những gì đang được giấu kín và cũng đang giao tranh với nhau ở bêntrong; những lý tưởng và dục vọng, trí tuệ và bản năng, thiện và ác, những phần conngười ý thức được và những phần vô thức của con người” [4, tr. 345]. Nguyễn MinhChâu nhận thấy cuộc sống mới khởi đầu nhen nhóm tư tưởng cá nhân chủ nghĩa cũng nhưsự phức tạp trong tâm hồn con người. Trong chiến tranh, Quốc Hùng (Trên vùng đất sỏi)là một cán bộ linh hoạt và rất quan tâm khắc phục quyền lợi cấp dưới nhưng sống tronghòa bình con người cá nhân ngày càng được bộc lộ, từ việc giành cho được gian nhàngoài cùng để ở, biến nhác trong công việc, bảng plan huấn luyện không hề có sựthay đổi qua nhiều khóa liền, ganh tỵ với Sinh trong công việc,… Quốc Hùng không phảilà mẫu người người hùng với phẩm chất tốt đẹp nhưng cũng không phải là con người hoàntoàn xấu. Bản thân ông có sự đan xen giữa cái tốt và cái xấu, cái cao thượng và cái thấp hèn.“Họ vẫn là những người đồng chí tốt, trung thành với cách mạng nhưng họ làm việc theomột quy định hành chính nhạt nhẽo, không dám bỏ sức ra nhiều sợ chóng già… Ôngkhông hề ngạc nhiên về những biến đổi của Quốc Hùng nhưng mà ông không thể khônggiận anh. Huấn luyện là công việc tích lũy sức mạnh cho quân đội, ai không làm với mộttinh thần trách nhiệm tột độ là có tội với chiến sĩ, có tội với Tổ quốc. Nếu không thế thìgiữa thời đại phải tập trung xây dựng kinh tế, Nhà nước và Đảng kêu gọi mọi người laovào sản xuất thì chúng ta vác khẩu súng ra bãi tập để làm gì?” [4, tr. 697-698]. Mỗi conngười hiện giờ là một toàn cầu riêng với những tư duy, hành xử không giống ai và chínhnhà văn đã lắng nghe, diễn tả đầy đủ bản chất, đi sâu vào tận ngóc ngách của những tâmtư riêng, những thay đổi trong nhận thức, những lo âu trằn trọc, những dằn vặt, đớn đaucủa con người giữa cuộc sống. Nhân vật Sinh (Trên vùng đất sỏi) cũng có những tư tưởngbảo thủ thỉnh thoảng rất phép tắc: “Sinh thường ví những người cán bộ bây giờ như mộtchiếc cân thăng bằng. Một bên là công việc huấn luyện xây dựng quân đội, một bên làcuộc sống riêng với mọi thứ lo toan hàng ngày rất cần thiết; giữ cho chiếc cân thăngbằng được đòi hỏi phải có nhiều nghị lực vì cuộc sống riêng bao giờ cũng chèo kéo, chựclấn phần nhiều hơn” [4, tr. 681] Sinh rất nghiêm khắc với mình và cả người khác trongnhững chuyện nhỏ nhặt như đi muộn vài phút, về sớm dăm phút, đứng giữa bãi tập màđầu óc vấn vương về công việc này việc khác, “những chuyện nhỏ nhặt ấy cũng khôngtẩn thất đến ai, nếu dễ tha thứ cho mình dần dà trở thành thói quen, có thể làm biến đổimột con người” [4; Tr.681]. Đôi lúc Sinh lại rất ngiêm khắc với Nhạn (vợ Sinh), Sinh rấtyêu vợ nhưng anh lại cho rằng Nhạn chưa thật sự là người vợ bộ đội và khi thiết yếu,trận chiến cần anh có mặt thì anh có thể ra đi ngay và Nhạn sẽ có đủ nghị lực để sốngmột mình với con qua những ngày khó khăn nhất.Thời điểm con người dễ nắm bắt tiếng nói trong bản thân mình nhất là khi conngười rơi vào trạng thái khủng hoảng niềm tin hay khi ý thức được về những thay đổi,ngồi đối mặt với chính mình bằng sự sám hối, thức tỉnh. Nhân vật “tôi” trong Vừng sángở chân trời tự nhận thấy: “Quả thật từ hòa bình, chúng ta sống không được hồn nhiênnhư ngày kháng chiến, cái tính rộng rãi và cởi mở cũng thiếu đi. Có một lần, một ngườibạn đã tâm sự với tôi: dạo này mình hay nghi ngờ quá. Gặp một người bạn cũ trên đườngphố, mình cũng vồ vập người ta, mình cũng hết sức cảm động thực chứ không giả dốiđâu. Mình cũng thành tâm mong mỏi trong quãng thời gian qua, bạn mình cũng tiến bộ.Nhưng không hiểu sao, mình bắt gặp trong người mình có một con mắt không rời quansát người bạn đứng trước mặt mình, từ lời ăn tiếng nói đến cách ăn mặt để đánh giá, cânnhắc…” [4, tr. 743]. Giờ đây, tư tưởng công thần đã nhen nhóm, tâm lý con người trởnên phức tạp. Trong Đất quê ta, qua mẩu truyện về nữ diễn viên điện ảnh tên Hương mãimê đuổi theo những ảo ảnh phù du để rồi gia đình tan vỡ, tác giả muốn đặt ra vấn đề vềsự tha hóa trong tư cách con người, sự lựa chọn của mỗi con người để mang lại hạnhphúc cho mình và người thân. Nhân vật “tôi” (Sau một buổi tập) cứ cho rằng cái tài huấnluyện của mình là tuyệt vời với môn vọt tiến, muốn toàn bộ tân binh vào “quy lách” trongvòng một tuần với những khẩu lệnh rắn và lạnh lùng lại thêm không tiếp xúc, trò chuyệnnhiều với anh em nên nhân vật “tôi” không được thiện cảm của tiểu đội tân binh. Những tưtưởng bảo thủ với ý kiến tư sản đã làm thay đổi tư duy của một số phòng ban ngườilính, làm họ sống khác hơn so với thời chiến, nhìn sự việc tiêu cực hơn.Ngay từ năm tháng chiến tranh Nguyễn Minh Châu đã bộc lộ cách nhìn đa diệnvề hiện thực và con người. Nhà văn không muốn dừng lại ở những điều đã thấy một cáchđơn giản, một chiều ngợi ca mà ông muốn phân tích, khai thác vào tận cùng toàn cầu tâmhồn của con người. Với cách nhìn con người có một chiều sâu nhân bản, nhân vật củaNguyễn Minh Châu luôn có cái gì đó xa vời huyền bí, khó nắm bắt.2.3 Trí não yêu nước và chủ nghĩa người hùng cách mạng trong truyện ngắnNguyễn Minh Châu trước 19752.3.1 Lòng căm thù giặc sâu sắcChủ nghĩa yêu nước là nguồn động lực trí não lớn nhất của mọi người trongcuộc kháng chiến, cũng là nguồn xúc cảm lớn bao trùm và thấm sâu trong mọi tácphẩm. Hoàn cảnh đất Viet Nam trong giai đoạn 1945 – 1975 là một hoàn cảnh đặc biệt, cảnước phải đối mặt với hai trận chiến tranh ác liệt chống Pháp và chống Mỹ, vấn đề đượcquan tâm hàng đầu là sự sống còn của cả dân tộc. Con người Việt Nam với những nétphẩm chất cao đẹp và vững bền là chủ nghĩa người hùng và tình thương, lòng nhân ái, đứchi sinh. Các tác phẩm văn học thời kỳ này đã xây dựng được nhiều hình tượng đẹp về conngười Việt Nam thời đánh Mĩ, ở nhiều tầng lớp, thế hệ, lứa tuổi, nhưng đều là biểu tượngcủa dân tộc và nhân dân. Nhận thức về quốc gia luôn gắn liền với nhận thức về nhân dân,đó cũng là một nét nổi trội trong chủ nghĩa yêu nước ở thời kì này. Cuộc kháng chiếnchống Mĩ một lần nữa trổ tài sức mạnh vô tận, phẩm chất tuyệt vời và những hi sinh vôcùng to lớn của nhân dân. Tư tưởng quốc gia của nhân dân đã thấm sâu vào cái nhìn vàxúc cảm của mọi nhà thơ khi nói về quốc gia. Nhân dân, đó là những người mẹ, ngườicha, người chị, ở mọi nơi, mọi vùng, tiền tuyến và hậu phương, miền Nam và miền Bắc,mà mỗi người lính, người cán bộ đều được họ giúp đỡ, chở che, nuôi dưỡng.Trong những năm tháng ác liệt của chiến tranh, văn học không chỉ tập trung cangợi cuộc đấu tranh dũng cảm hào hùng của nhân dân ta, những chiến công chói lọi,những người hùng xả thân vì nước, thấm nhuần trí não thắng lợi và chủ nghĩa anhhùng cách mạng, không có lòng căm thù giặc sâu sắc, không có ý thức tự cường dân tộcvà niềm tin mãnh liệt vào tương lai, vào cuộc sống tươi sáng của dân tộc thì làm sao cóđược sức mạnh vượt qua những khó khăn, khổ sở, những đau thương mất mát củachiến tranh. Những người lính ra mặt trận không chỉ chịu khổ sở, mà còn cất giấu mộtnỗi lòng nhớ quê hương, người đi và người ở, ai chẳng đau, chẳng lo, chẳng thương,chẳng xót. Hơn hai chục năm qua, cuộc kháng chiến người hùng và đầy vinh quang củatoàn thể dân tộc như một thỏi đá nam châm đã hút toàn bộ mọi người, mọi dân tộc. Đólà lòng căm thù giặc, trí não phục vụ cho lợi nhuận dân tộc qua nhiều thế hệ giađình. Những con người cầm súng mạnh mẽ, gan dạ nhưng thỉnh thoảng cũng có những khoảnhlặng, đó là nỗi nhớ về gia đình, nhưng không làm ủy mị mà càng khích lệ trí não, để tayông càng cầm chắc súng tiến lên giành tự do. Có thể nói, dù chiến tranh có kịch liệt, giặcngoại xâm có tàn bạo đến đâu thì mỗi con người, từng người lính vẫn luôn dạt dào tìnhcảm. Họ nối kết với nhau bằng tình cảm chân tình, nhẹ nhõm nhưng gắn kết. Tất cảđiều ấy làm ra một sức mạnh đoàn kết vững chắc để hướng tới ngày mai quốc gia độclập. Chiến tranh buộc mỗi con người phải quên đi cái tôi để sống với cái ta, quên đi cái cánhân để lấy cái chung làm lý tưởng. Nhưng Mảnh trăng cuối rừng thì lại khác, tronghoàn cảnh chiến tranh, những điều riêng tư, những tư duy rất đời thường của con ngườicũng được quan tâm. Con người không thể sống với cái chung mà quên đi cái riêng vì cáiriêng đôi lúc lại là nguồn cội cho cái chung ra đời và phát triển. Hai nhân vật Lãm vàNguyệt họ nổi trội lên bởi nhân lối sống tích cực, luôn biết sống cho mình và cho mọingười xung quanh, chỉ là người lính bình thường nhưng hành động của họ cao thượng, toát lênvẻ hào hùng của dân tộc và lòng căm thù giặc sâu sắc.2.3.2 Sẵn sàng đấu tranh bảo vệ Tổ quốcTrong trường ca thời chống Mỹ, chiến tranh và bom đạn là cái nền để con ngườithời chống Mỹ với nhiều phẩm chất cao đẹp hiển hiện. Toàn cầu mà ở đó, con ngườiquyết vượt lên sự tàn phá hủy diệt để tồn tại, phát triển với vẻ đẹp sáng ngời. Hoàn cảnhlúc bấy giờ đặt ra cho toàn bộ mọi người là phải lấy trách nhiệm công dân, nghĩa vụ đối vớiđất nước làm phương châm hành động. Ý thức công dân cùng với sự nhiệt tình của ngườichiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng đã thúc giục toàn bộ mọi người hòa mình vào cuộcsống đấu tranh bảo vệ quốc gia và xây đựng nền kinh tế mới ở miền Bắc.Đặc biệt, hình ảnh người chiến sĩ đã thu hút rất nhiều bút mực của các nhà thơ,nhà văn người lính. Họ thật thân thiện, chân tình, yêu thương nhân dân, Tổ quốc và vô cùngdũng cảm. Lý tưởng, hành động của lớp thanh niên ngày ấy là phải đối mặt với quân thùtrên trận tuyến, vì độc lập tự do của Tổ quốc, toàn bộ đều hướng ra tiền tuyến, quên đi tất cảnhững toan tính riêng tư, những tư duy cá nhân vì thắng lợi cuối cùng, không sợ hysinh, khổ sở và bom đạn của kẻ thù. Ta bắt gặp người sĩ quan, những người lính ngàyđêm ra sức tập luyện để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh sắp tới trong Sau một buổi tập, Trênvùng đất sỏi, hình ảnh người lính dũng cảm đang đối mặt với kẻ thù trong trận chiến bảovệ vùng đất quê hương trong Những vùng trời khác nhau, Mẩu chuyện trên trận địa, hìnhảnh đôi trai gái gan dạ, điềm tĩnh trên con đường Trường Sơn bị đánh phá ác liệt trongMảnh trăng cuối rừng, hình ảnh bà mẹ nén đau thương khích lệ giúp đỡ bộ đội chiếnđấu trong Người mẹ xóm nhà thờ. Ở những truyện không trực tiếp đề cập đến cuộc chiếntranh chống Mỹ thì mẩu truyện trong tác phẩm cũng không nằm ngoài những vấn đềchung của quốc gia. Những hạt thóc lép, mẩu truyện về gia đình bác Chắm cũng là câuchuyện chung của nhiều nông dân trong nạn đói kinh khủng năm Ất Dậu, không chịunằm chờ chết đói, họ đã nổi dậy tranh đấu để tìm đường sống. Truyện đã tái hiện đượckhông khí quyết liệt của trận đấu tranh chống địa chủ tay sai cho giặc, sự tất yếu của conđường cách mạng mà người nông dân làng Truồi lựa chọn vào thời điểm năm 1945 lịchsử.Trí não đấu tranh lạc quan và lòng nhiệt huyết của những người lính luôn đượcthể hiện sắc nét: “Những ngày nằm chờ lệnh đi chiến đấu, các chiến sĩ pháo thủ chúng tôimắc những chiếc võng bằng vải bạt trên cành cây, nằm ngước nhìn lên khung trời quangđãng và nhẩm đọc cho nhau nghe những bức thư Tết sắp gởi đi. Giữa những phút hiếmhoi ấy, người chiến sĩ bỗng cảm thấy một niềm vui bâng khuâng, y như có một nụ chồixanh vừa nảy ra trong lòng mình. Tâm sự những người chiến sĩ ấy chỉ muốn nhổ trại,cuốn những chiếc võng cột vào ba lô, lại vác pháo lên đường” [3, tr. 19]. Hình ảnh ngườilính được khắc họa sắc nét qua ngòi bút nhà văn, từ cuộc sống chiến trường đến những suynghĩ, tâm tình ẩn sâu bên trong. Chiến tranh luôn gắn liền với khó khăn, khổ sở, nhưngsống giữa thời bom đạn ấy những người lính vẫn luôn ánh lên một trí não lạc quan, giữvững niềm tin vào tương lai. Thắng cuộc nằm ở niềm tin ấy, ở trí não không chùnbước cùng những muốn độc lập tương lai. Chông chênh không ngăn được bướcchân của lý tưởng cách mạng, của lòng yêu nước nồng nàn. Những người lính vận tảimang vác đạn, súng trĩu nặng đôi vai vẫn vui vẻ nghêu ngao, thỉnh thoảng là những câu phatrò, tạo không khí hay là những mẩu truyện tâm tình tạo tiếng cười vang đầy thân tình,đoàn kết. Những mẩu truyện của anh Lãm lái xe luôn tạo mê hoặc và lôi cuốn trung đội láixe, “không biết ở trên đời còn có cái cảnh gì vui và náo nhiệt hơn đêm như đêm nay,những chiến sĩ lái xe sau nhiều chuyến rong ruổi trên các ngã đường nay trở về gặp mặtnhau,… Người này chưa nói hết, người khác đã dọn trước như thế bằng giọng hết sứcháo hức. Hình như trong đầu từng người đang xôn xao vô vàn hình ảnh trên dọc đường,và chính lúc này, những hình ảnh ấy đang chen lẫn nhau đòi sống lại…” [3, tr. 112]. Haynhững người lính cao xạ “trông thấy máy bay địch xì khói trắng cứ nhảy lên mà reo, vàcán bộ thấy pháo thủ trèo lên mâm pháo thì kêu trời ầm ỹ, cứ sợ năm người cùng đứngmột lúc sẽ đánh vỡ mất mâm pháo” [3, tr. 56]. Mẩu chuyện đại đội 24 “các đồng chí, cácđồng chí có ngửi thấy mùi gì trên quân phục của chúng ta bây giờ không? Mùi nắng haymùi mồ hôi? – Không, mùi thưốc súng đấy. Chúng ta vừa ở mặt trận trở về và thắng mộttrận oanh liệt” [4, tr. 590] trong trận đột phá khẩu đồn Phương Xá ngày xưa.Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau viết về những con người mang vẻ đẹpsáng ngời của lý tưởng cống hiến, sẵn sàng xả thân vì cộng đồng dân tộc, có lòng yêunước, căm thù giặc sâu sắc. Nhân vật Ngạn trong Nguồn suối đã để lại ấn tượng khó quêntrong lòng người đọc về hình ảnh một huyện đội trưởng của một vùng đất xa xôi nhất củaTổ quốc. Cuộc sống anh đi theo chiều dài cuộc đấu tranh của dân tộc, đánh Pháp rồi đánhMỹ, lăn lộn trên một vùng quê biên giới mà anh xem như quê hương thứ hai của mìnhtrong hai mươi năm trời. Anh không ngại một công tác nào từ đánh Pháp, đánh phỉ đếnnắm dân, tìm đất, gây nền tảng kháng chiến, tổ chức du kích bí mật… Anh cống hiến tất cảsức lực để mang vùng đất Pa–khen trở về với Tổ quốc. Cuộc sống anh chỉ có một mục đíchduy nhất là đánh thắng quân thù và anh dành mọi ý thức và tình cảm của mình vào mụcđích cao thượng đó. Chính vì thế, anh đã hy sinh mối tình tươi đẹp giữa anh và cô gái Lào YKhiêu bởi anh biết “Có một người con trai trong bản cũng yêu Y Khiêu, một người contrai đánh giặc và làm rẩy rất giỏi, là chiến sĩ trong đội du kích của anh” [3, tr. 11-12].Người lính đã hy sinh hạnh phúc cá nhân để hòa cái ta chung vào trận chiến và đó làngười chiến sĩ cách mạng hiện lên với một vẻ đẹp cao thượng của chủ nghĩa người hùng cáchmạng. Trong truyện Nhành mai, tình yêu giữa Thận và Lương nảy nở trong quá trìnhcông tác cách mạng, được bồi đắp cho dày dặn thêm qua những khổ sở mất mát. Lúcchia tay sau một trận chống càn, cô gái hẹn người yêu: “Anh chóng lành để trở về giếtthật nhiều giặc nhé – Anh đừng quên em!” [3, tr. 27]. Tình yêu của họ thật trong sángnhưng không thể vượt quá hạn chế của công việc, những xúc cảm riêng tư phải được nénlại để nhường chỗ cho những nghĩa vụ cao thượng và trọng yếu hơn.Một khía cạnh làm ra sức mạnh đấu tranh của các anh chính là: tình đồng đội,đồng chí, tình quân dân. Những tình cảm tốt đẹp giữa con người với nhau trong cuộcsống chiến tranh cũng được Nguyễn Minh Châu khắc họa sắc nét đó là tình cảm đồng độibền chặt giữa hai con người có cá tính và hoàn cảnh sống hoàn toàn trái ngược nhau,tưởng không thể nào cùng nhau xông pha nơi chiến trường: cùng gắn bó với khẩu đội caoxạ mà giữa Sơn, một chàng trai Hà Nội hào hoa đi vào cuộc đấu tranh bằng một phongcách đầy chất lãng mạn, với Lê, đứa con của cách bãi sông Lam vất vả, bươn chải từ bétrong hoàn cảnh bố mẹ mất sớm, đã coi nhau như máu thịt tự lúc nào. Và mỗi người vớinhiệm vụ riêng nhưng đã cùng nhau bảo vệ vùng trời quê hương mình: “Đôi lúc ngồi bênSơn, anh thường nghĩ một cách say mê rằng nếu không có vùng trời thiêng liêng là củachung của hai người trên đầu đang bị kẻ thù rạch nát, nếu không có hai chiếc ống kínhlắp song song bên nhau trên một khẩu pháo bắn máy bay thì có lẽ không có hoàn cảnhnào anh và Sơn có thể gặp nhau, cùng chung tấm giáp nằm, mặc chung nhau vài chiếc áokhét lẹt mùi thuốc đạn và mùi mồ hôi pha tạp. Bấy giờ anh mới chợt hiểu đó là tình đồngđội, là hàng ngũ những người lính chiến đấu bảo vệ Tổ quốc” [3, tr. 61]. Tình yêu nướccùng với tình yêu thương của những người lính dành cho nhau tại nên một sức mạnh phithường giúp người lính hoàn thiện nghĩa vụ so với quốc gia, so với dân tộc, đối vớinhân dân trên trí não tự nguyện và sẵn sàng đấu tranh.Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã huy động một lực lượng lớn phụ nữ tham giavào công việc đấu tranh và xây dựng quốc gia. Biết bao phụ nữ đã có mặt trên các côngđường đảm bảo cho giao thông thông suốt. Họ không tiếc tuổi thanh xuân và sẵn sàng hysinh cuộc sống riêng cho dân tộc. Những người con gái không chỉ thuỳ mỵ, duyên dángđáng yêu mà rất kiên quyết, dũng cảm, gan góc trước kẻ thù. Các cô gái bước vào cuộcchiến đấu của dân tộc như đi trẩy hội với, tiếng hát át tiếng bom, cũng tinh nghịch, duyêndáng và đáng yêu. Đó là nét chung của một thế hệ. Họ sống giản dị, lạc quan, chấp nhậnmọi thử thách, khó khăn và hy sinh.Trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh, nhiều cô gái trẻ đã dành trọn những thángnăm đẹp nhất của cuộc sống mình đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Khuôn mặt củangười nữ chiến sĩ toát lên một sự quả cảm và kiên định. Trong những năm tháng giannguy của quốc gia, hàng vạn cô gái đã tự nguyện lên đường bảo vệ non sông và xâydựng cuộc sống hòa bình mới. Với cô Ngàn Tờ-ri-cô-da (Đất rừng) vừa vui vừa trẻ đẹpvà rất hồn nhiên, ai cùng khen ngợi cô bởi cô luôn làm việc tận tụy và cái nết thẳng thắn,không kênh kiệu như mọi cô khác, mà rất cả tin, không nghi kỵ hay ngờ vực bất kỳ vớingười nào. “Nhân một đợt tuyển nam nữ thanh niên đi xây dựng xã hội chủ nghĩa, Ngànxung phong đi” [4, tr. 624], chị đi nhưng không mang con theo. Trước đó chị đã can đảmdi làm đủ mọi nghề để nuôi con: đan lưới, đội than, bốc vác hàng, đập đá. Hay hai cô gáiLan và Tiệm ở Hà Nội cũng xung phong lên Tây Bắc cùng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Từnhững ngày đầu mới mở công trường thì chị Tính và hàng trăm cô đã có mặt trong hạtgiao thông của công trường xây dựng cầu Đá Xanh. Đội phá đá của công trường toàn lànữ, tháng này sang tháng khác, chỉ với một sợi dây da bảo hiểm buộc ngang lưng, họdũng cảm trèo lên từng mỏm núi cao chọn những vỉa đá xanh đẹp nhất để xây cầu trêncác tuyến đường, chiếu cầu Đá Xanh làm gần hai mươi năm mới xong, xanh biếc và đẹpnhư một giấc mộng. Cô Thận (Nhành mai) là hình ảnh người phụ nữ trong giai đoạnchiến tranh, dịu dàng, thùy mị nhưng cũng gan góc, dũng cảm. Cô du kích bé nhỏ củalàng Đằng vụt trưởng thành trong tình yêu với người lính đánh Tây tên Lượng và trongnổi mất mát đớn đau về người mẹ bị giặc giết. Cô đã lao vào cuộc đấu tranh, cô trở thànhĐảng viên và hoạt động ở nơi đầy nguy hiểm. “Quan hệ cha con, anh em, vợ chồng, tìnhbạn, tình yêu đều chỉ là những sắc thái khác nhau của tình đồng chí, tình bạn chiến đấu”[15, tr. 30]. Sau năm năm xa cách, tình yêu là tình đồng chí, nổi nhớ cũng như lời độngviên nhau trong cuộc kháng chiến trường kì.Nguyệt hiện lên trong lửa đạn với vẻ đẹp chói sáng dũng cảm, với sự gan góc kiêncường, Nguyệt đã là một người lính gan góc, cái phẩm chất chiến sỹ và trái tim thơ củaNguyệt đã được mô tả qua nhiều cụ thể từ phát xuất hiện trăng không phải pháo sáng;hiểu quy luật hoạt động của máy cất cánh, sự táo bạo thông minh hoa tiêu cho xe Lãm vượt hốbom; rồi dũng cảm che đậy cho đồng đội lúc bom rơi, lao ra cứu xe. Sẽ thiếu đi nếukhông nhắc đến hai nhân vật Nguyệt; một cô Nguyệt người hùng hy sinh, một chị Nguyệtdũng cảm thẳng thắn. Họ cùng với Nguyệt thành ba mảnh trăng ghép lại: một đã lặn, mộtđang ở độ xế tà và Nguyệt nhân vật trung tâm chính là vầng trăng đang lên lấp lánh suốtchiều dài toả sáng không gian truyện. Đó là những vầng trăng tâm hồn con người cứ kếtiếp nhau tỏa sáng bền chắc và vĩnh hằng mang theo ước mong khát vọng của con người, dùcuộc sống gay cấn, dù bên bờ chết chóc. Ngợi ca nhân vật của mình ngòi bút nhà văn ngợica chính những con người mới mang trong mình lẽ sống lý tưởng trong sáng. Điểmchung ở họ chính là trí não yêu nước, gan dạ, đấu tranh quật cường để góp phần vàoviệc giữ gìn và bảo về tổ quốc. Sự hy sinh ấy, trí não đấu tranh ấy ở người phụ nữ đãkhiến họ trở thành bất tử trong kịch sử của dân tộc cũng như trong văn học. Chiến thắngcủa dân tộc Việt Nam trước kẻ thù xâm lăng có sự đóng góp rất lớn từ lòng yêu nước củanhững người phụ nữ. Trong Mảnh trăng cuối rừng, những mẩu truyện nhỏ về nhữngngười ưu tú của dân tộc đã sống trọn và sống đẹp cho một thời dại người hùng. Đó là Lãmđã trốn nhà đi bộ đội, chị Tính có mặt từ rất sớm nơi công trường, Nguyệt là cô học sinhmiền xuôi mới rời ghế nhà trường đi kiến thiết miền Tây, Nguyệt lão đã bốn con nhưngluôn nhiệt tình tham gia kháng chiến. Họ đã góp một phần tuổi trẻ, sức lực, trí não chocuộc chiến sống còn của dân tộc.Những năm tháng cuối cùng của trận chiến tranh chống Mỹ là những năm thángác liệt và dũng cảm nhất. Những anh bộ đội, người lính đã sống và đấu tranh theo một lýtưởng cao thượng giải phóng miền Nam thống nhất quốc gia, mang cả nước tiến lên chủ nghĩaxã hội, lý tưởng cao đẹp đó trở thành mục đích cao thượng và niềm tin thiêng liêng đem lạisức mạnh cho những con người người hùng thời chống Mỹ. Mỗi con người đều mang nétchung của tập thể người hùng và mang nét riêng của từng cuộc sống. Những vùng trời khácnhau, Nguyễn Minh Châu khắc họa chân dung những thế hệ thanh niên từ phương trờichẳng hề quen nhau nhưng lại có chung mối thù, cùng chí hướng, chung lý tưởng quyếttử cho Tổ quốc quyết sinh “có một trăm người lính thì có một trăm cuộc đời và vùng trờiquê khác nhau. Họ đi qua cầu Bùng, cầu Hổ, Hàm Rồng và Nam Định, Phủ Lý, để lạiphía sau rất xa những đèo Ngang, Quán Hầu, Bãi Hà… những vùng trời họ đã để lại mộtnửa tâm hồn ở đấy” [3, tr. 72], mỗi truyện ngắn là một khúc ca hào hùng, cuộc sống củatừng nhân vật mang điểm chung cho những con người thời kỳ này. Có anh du kích chốngPháp tên Ngạn (Nguồn suối), người lính pháo thủ Lương (Nhành mai), hai anh chiến sĩcao xạ Sơn và Lê (Những vùng trời khác nhau), anh lính lái xe Lãm, cô thanh niên xungphong Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng), bà mẹ yêu nước Lân, chú bé liên lạc Nết (Ngườimẹ xóm nhà thờ), cô bé mẫu giáo Thơm (Lá thư vui). Họ đều là những con người khôngồn ào mà lặng lẽ, lặng lẽ, có chiều sâu nội tâm. Ở mỗi họ đều có một khoảng trời riêng,một tình cảm gắn bó riêng với những ước muốn riêng trong những hoàn cảnh sống cụ thểhoàn toàn khác nhau. Và họ đã khắc phục số phận, cuộc sống riêng của mình trên chuẩnmực của cái chung và họ trở nên cao quý và trở thành biểu tượng cho nét đẹp của thờichống Mỹ cứu nước. Hình ảnh con người kháng chiến, con người lạc quan, thủy chung,tin tưởng vào tương lai thắng lợi đã được xây dựng bằng những cụ thể hiện thực sốngđộng và giàu chất thơ. Đó là những con người bằng xương bằng thịt như tất cả chúng ta nhưngtrong thời kì lịch sử vô tiền khoáng hậu ấy, tư tưởng, trí óc của họ đã đặt trên tầm cao củamọi tư duy và hành động bình thường. Nguyệt sẵn sàng nhường nơi ẩn náu cho đồngđội hay Hanh đã trưởng thành lên từ một chú bé liên lạc bên những đồng đội của đơn vị24 “cho nên tuy đã đi xa nhưng vẫn còn giữ trong lòng một chút gì tự hào về cái đơn vịcũ, cộng thêm một thứ tình quyến luyến như tình quê hương, gia đình” [4, tr. 575].Không có tư tưởng mới về con người thì không thể có được hình tượng những conngười mộc mạc và cao thượng ấy. Có thể nói hầu hết các hình tượng được xây dựng thành côngtrong trường ca đều thấp thoáng hình ảnh của các nhà thơ, người lính, nhân dân – nhữngcon người bình thường mà cao thượng, giàu ân tình thủy chung với Bác Hồ, với Đảng và cuộckháng chiến.Như vậy, những nhân vật của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn này dù thuộc lứatuổi nào, ở vị trí nào cũng đều tỏa ánh sáng chói ngời của những phẩm chất cách mạngkiên cường, những hành động vì nước quên mình.2.3.3 Sẵn sàng là hậu phương vững chắc để phục vụ tiền tuyếnNgười lính không chỉ xuất hiện với những đường nét mạnh mẽ, khí thế hiên ngang, làmột người hùng dân tộc ở mật trận, họ cũng là người lính thân tình, đoàn kết nơi hậuphương. Đó là những lá thư “những chiếc phong bì xé vội. Có người ngồi xem một mìnhtrong góc kín, có cậu đứng giữa sân đọc oang oang, có chỗ hai ba người chụm lại. Họđọc nghiến ngấu, hoặc chậm rãi, soi xét từng dòng từng chữ một. Có những nét cườihoan hỉ, và những nét mặt đượm đầy vẻ ưu tư. Họ là những người lính đã đứng tuổi aicũng phải cáng đáng gia đình riêng…Những dòng chữ quen thuộc ấy từ khắp nơi củahậu phương gửi đến đã mang tới cho họ những niềm hạnh phúc, hy vọng, vui mừng haylo lắng trong những ngày cuối năm này” [4, tr. 567]. Hay những lá thư của những ngườichiến sĩ gởi về những người vợ, người con ở quê nhà: “Đây là thư của bố cháu Thơm! Vàđây là thư của bác bộ đội tóc bạc! Giữa những ngày cùng hạm tàu đi lùng địch giữa biểnkhơi, người bố vẫn không quên đứa con. Làm sao mà quên được? Bố vẻ cho cái Thơmmột chiếc tàu trắng. Bố quên không vẻ những dây cờ xanh đỏ, chỉ có một cỗ súng rất lớnđặt trên mũi tàu” [3, tr. 50]. Lá thư mới mẻ chở nặng ân tình của Thơm và những lá thưcủa gia sư gởi ra mặt trận là niềm khích lệ to lớn, gắn kết tiếp thêm sức mạnh chonhững người lính nắm chắc tay súng.Hình ảnh người mẹ Việt Nam với truyền thống “kiên cường, bất khuất, trung hậu,đảm đang” là một trong những “hậu phương” vững chắc nhất. Trước hết vẫn là nỗi đaukhổ trong chiến tranh mà tuổi già còn phải chịu đựng. Biết bao bà mẹ có con đi chiến đấuxa và luôn mong ngày gặp lại. “Trong giấc ngủ thiếp đi vì mệt mỏi, Bính lại thấy ngườimẹ già ở quê hiện lên về đứng bên cạnh. Người mẹ vẫn mặc chiếc áo vá vai, không nóimột lời chỉ nhìn anh chòng chọc, đôi mắt đã mòn mỏi vì mong đợi” [4, tr. 601]. Mẹ Thậntrong truyện ngắn Nhành mai đã kêu con gái mình đi theo bộ đội “hỏi xem thằng Lươngở đâu thì cứ xin gia nhập vào đơn vị của nó. Mày không cầm súng được thì thổi cơm choanh em ăn cũng được. Tao cho phép chúng mày cưới nhau. Bao giờ đánh hết Tây thì hãyvề!” [3, tr. 35]. Hay người đàn bà Thái Bình chất phác, vận chiếc áo dài nâu bạc đã vámấy miếng màu đen trên vai, hai giải áo đằng trước xoắn ruột mèo thắt chéo – mẹ củaHạnh, bà luôn lo ngại cho đứa con mới đi nghĩa vụ của mình, bà hỏi thăm và kể lể đủ thứvề đứa con của mình “hỏi về tình hình sức khỏe của con, kể lể tính nết nó hiền, lầm lỳ ítnói, lại rút rát. Nó không ăn được mỡ, kỵ cả món thịt lương nấu với lá lốt, nó có chứnghay rức đầu và đêm nằm mê” [4, tr. 535]. Lòng người mẹ kháng chiến thương yêu bộ độitrải ra bạt ngàn, nào là trứng gà, bánh mật, mía và chè tươi mang cho con và cho cả nhà cung cấp.Bác hai Chắm gái suốt mười bốn năm trời, khi biết tin anh hai Chắm chết, bác ở vậy nuôicon. Người chồng mới quen hơi bén tiếng, bác cũng không còn nhớ tiếng nói, khuôn mặtcủa chồng nữa vì cuộc sống quá vất vả làm bác quên lãng đi. Mười mấy năm tưởngchồng đã chết, bác thắt lưng buộc bụng nuôi con. Nguời mẹ Lân vẫn kiên định khiđứng trước chết chóc “Tao già rồi. Mày muốn giết tao thì giết chứ con gái tao sinh ra màyđừng hòng động đến sợi tóc nó!” [3, tr. 35]. Trước cuộc sống ghê gợn của bọn Mỹ và taysai dựng lên trong xóm nhà thờ, gia đình mẹ Lân phải chia tay nhau, vợ chồng anh Lân vàhai đứa con đi vào Nam, bà mẹ cõng đứa cháu về làng. Giặc Mỹ đã giết em Nết, đứa cháumà bà yêu thương “ngọn đèn trên tay mẹ vẫn rung rung, ánh lửa trắng bệch ra trên cặpmôi mấp máy. Một nỗi đau đớn ghê gớm cố nén chặt đang hiện trên khuôn mặt mẹ rồitừ từ, hai giọt nước mắt ứa ra, nặng trĩu, lăn xuống đôi gò má răn reo” [3, tr. 106]. EmNết mất, kẻ thù đã dứt đi một phần da thịt, vậy mà mẹ vẫn đủ bình tâm làm việc, còn locho anh bộ đội đang ở nhà mình. Mẹ còn lo cho các chiến sĩ ngồi trên mâm pháo: “MẹLân trưa nào cũng sang với anh em… mẹ đặt nồi cháo đậu xuống, lấy chiếc khăn vắt trênvai lau từng chiếc bát rồi mới múc cháo đưa tận tay từng anh một” [3, tr. 108]. Nỗi lòngriêng xót xa của người mẹ, ý thức của người mẹ nén lại những khổ đau trước trách nhiệmvới cuộc sống chung, với quốc gia. Mẹ Lân, một người đàn bà có đạo, cũng giống nhưnhững bà mẹ Việt Nam nghèo, chịu khó và rất yêu quý cán bộ. Có một điều rất đáng trântrọng là mẹ Lân luôn mang dãi áo lên chùi nước mắt mỗi khi ngước nhìn bức ảnh Bác Hồtreo giữa nhà. Giữa cái khung cảnh mù mịt khói đạn cùng với cơn giông bão đang nổilên, nhiều tốp máy cất cánh địch ngạc nhiên lao tới, mẹ Lân cầm chiếc đòn gánh lao qua nhữngđám cháy trên bờ sông chạy lên trận địa, quần áo của mẹ bị cháy sém, tả tơi, mẹ chạy tớiụ súng và thét lên “Các con hãy bắn đi, giết đi! Giết hết chúng nó đi!” [3, tr. 109]. Đó làtiếng thét của mẹ Lân: “Người mẹ đau khổ đứng sừng sững trên mặt đất, bàn tay cầmchiếc đòn gánh chĩa thẳng len trời: “Giết đi! Giết hết chúng nó!” Trông mẹ chả khácnào một mối căm giận đang bốc thành ngọn lửa” [3, tr. 109]. Nguyễn Kiên đã nhận xét:“Anh đặc biệt rung động trước những số phận gắn bó với mảnh đất miền Trung khắckhổ, thi vị, anh hùng” [11, tr. 118]. Và mẹ Lân chính là người mẹ miền Trung, là một tấmgương và cũng là một trong những hậu phương vững chắc cho những người lính đangchiến đấu ngoài chiến trường.Nguyễn Minh Châu còn ca tụng những cậu bé, những cô bé yêu nước, sẵn sànggóp sức cho cách mạng. Phải có một tâm hồn giàu chất nghệ sĩ, Nguyễn Minh Châu mớisáng tạo ra được hình ảnh cô bé Thơm (Lá thư vui) ngây thơ, hồn nhiên và giàu xúc cảm.Cô bé yêu và nhớ người bố hải quân, nhớ bác bộ đội già, các chú bộ đội trẻ, những chú bộđội lái xe, những chú bộ đội giữ súng to và súng bé, những chú thương binh bên Quân yviện để khích lệ trí não “cháu yêu các chú lắm cơ!” và hồn nhiên “các chú bắn thậtnhiều thằng Mỹ, và phải giữ tay cho sạch” [3, tr. 44]. Nết (Người mẹ xóm nhà thờ)- cậuhọc sinh lớp bảy, ăn mặt cứ như một chú thiếu niên sắp đi cắm trại, đội nón cói, quần áocụt gọn ghẽ và thắt khăn quàng đỏ. Chú thiếu niên gác phòng không yêu nước, hồnnhiên, tạc tượng anh Nguyễn Văn Trỗi – một người đã thực hiện cuộc đánh bom liều chếtkhông thành, nhằm vào bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert Mcnamara. Anh bị tóm gọn vàbị chính quyền Việt Nam Cộng hòa kết án tử hình, và đã trở nên nổi tiếng với những lờituyên bố nảy lửa và được tôn vinh như một người thanh niên người hùng trong chiến tranhViệt Nam. Em Nết muốn noi gương dũng cảm của anh Nguyễn Văn Trổi nên lúc nào emcũng đem theo một con dao díp và một khúc gỗ dẻ. Ngoài ra, em Nết còn rất gan dạ,dũng cảm và hy sinh dũng cảm: “Hôm ấy nhân dân ra đồng gần hết, em Nết đang gácphòng không ngoài quán vội chạy trở về xóm bế những em nhỏ xuống hầm.Em cõng hếtcác cháu vào chỗ ẩn nấp xong, lúc quay trở lên thì trúng đạn rốc két ngay trên miệnghầm” [3, tr. 107]. Hay thằng Hạc (Những hạt thóc lép) mới mười bốn tuổi mà vóc caolớn, nó chả sợ ai cả, nó tin rằng Việt Minh sẽ về làng Truồi và chẳng còn phải chịu đóinữa “lá cờ đỏ trên cây gạo ngoài đầu xóm chợ, có một người ở dưới Chanh trao” [4, tr.716]. Dù cuộc sống có gian lao đến mấy cũng không làm chết đi những tâm hồn, nhữngcon người biết sống và tư duy cho người khác. Đó là những hậu phương “nhí”, tiêubiểu cho lớp tuổi trẻ lớn lên trong khói lửa, là những người chiến sĩ trong tương lai, là thếhệ tiếp nối, phát huy truyền thống yêu nước và tranh đấu của quê hương, quốc gia.Những người vợ luôn là hậu phương vững chắc cho những người trụ cột trong giađình đang cầm chắc tay súng ngoài tiền tuyến hay trên những thao trường huấn luyện. VợLê (Những vùng trời khác nhau) là người phụ nữ đảm đương, trong những ngày Lê chiếnđấu với trận chiến tranh phá hoại của địch, cô vẫn chăm chỉ cắt cỏ cho trâu bên cánh bãisông Lam hay cô Nhạn (Trên vùng đất sỏi) rất mực thương chồng (Sinh) “em phải vềnấu thêm bát canh sò với mồng tơi cho anh ăn – Nhạn bỗng nũng nịu – Gớm chưa kìa,trông anh gầy tọp vào như một cái xác mắm, làm gì mà như đi đánh trận về không bằng?[…] choàng đôi cánh tay ấm áp của mình lên máy tóc rối bù của chồng, hôn lấy hôn đểcái mùi bùn đất lẫn mồ hôi ngoài thao trường” [4, tr. 689], ngoài việc trông quầy hàngmậu dịch, cô vừa phải chăm con vừa là một người vợ bộ đội đảm đương. Chị Kiên (Câuchuyện trên trận địa) rất chăm sóc công tác cho chồng nhưng tính nết thì nhút nhát suốtngày ngồi bên cái khung cửi nhưng có lúc chị đã trở thành một cán bộ lãnh đạo phongtrào tranh đấu chính trị, nhất quyết không khai người chồng (Bẩm) và các đồng chí, chịrất dũng cảm dù bị tra tấn dã man. Và còn rất nhiều những người vợ như vậy luôn sẵnsàng là hậu phương vững chắc… Chiến tranh, kẻ thù cướp đi người chồng, người chanhưng những người phụ nữ đó vẫn nuốt nước mắt vào trong, lặng lẽ, hy sinh, chịuđựng. Đó vốn là đức tính đáng quý của người phụ nữ Việt Nam, trí não ấy giúp giúp họđể tiếp tục nuôi con và tiếp thêm niềm tin, nghị lực khích lệ cho quá trình bảo vệ quêhương.Bám sát hiện thực đời sống chiến tranh, Nguyễn Minh Châu kịp thời có nhiềutruyện ngắn viết về đủ loại quân binh chủng, từ những người lính phòng không (Nhữngvùng trời khác nhau, Mẩu chuyện trên trận địa), những chiến sĩ hải quân (Lá thư vui), bộđội giao thông, thanh niên xung phong (Mảnh trăng cuối rừng),… Bên cạnh nhữngtruyện ngắn viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà văn còn mở rộng sangngững mảng đề tài khác như mẩu truyện về cuộc nổi dậy của những người dân quê nămđói Ất Dậu (Những hạt thóc lép), một phụ nữ với cuộc sống mới ở nông trường khai phá(Đất rừng). Qua những mẩu truyện dù bình thường hay ngạc nhiên, đầy kịch tính thì cái đíchcuối cùng vẫn là biểu dương vẻ đẹp của những con người sống hết mình cho lý tưởng độclập dân tộc và CNXH. Các nhân vật như Nguyệt, Lãm (Mảnh trăng cuối rừng), Sơn, Lê(Những vùng trời khác nhau), Ngạn (Nguồn suối),… được xây dựng như là những biểutượng cho vẻ đẹp của con người thời kì, họ đều là những con người giàu lòng yêu nước,yêu lý tưởng cách mạng, cuộc sống riêng của họ hào vào cuộc sống chung của dân tộc,những tư duy riêng tư của họ cũng hướng về cái chung, vì lợi nhuận tập thể, của số đông.Những mẩu truyện của họ cũng là chuyện của nhiều người, bên cạnh họ luôn có sự hiệndiện của tổ chức, của đồng đội, của nhân dân sẵn sàng ủng hộ, giúp đỡ. Tính cách củanhân vật vì vậy có tính nhất quán, được khai thác đa số ở khía cạnh tích cực. Nhà văndùng những lời lẽ hết sức trân trọng để ca tụng vẻ đẹp của họ với giọng điệu ngợi ca, tựhào, nhất định.CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮNNGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 19753.1 Văn nghệ xây dựng nhân vậtCác thủ pháp xây dựng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu chưa phảilà những thể nghiệm mới mẻ, mới mẻ. Ông vẫn chung con đường với những nhà vănkhác với trí não lao động nghiêm túc để tạo một chỗ đứng cho mình. Trên bình diệnchung, với những thủ pháp truyền thống có linh hoạt chuyển hóa, nhân vật của ông đã tạora dấu ấn trong lòng người đọc. Ngoài việc xây dựng hệ thống nhân vật đậm màu sắccuộc sống, ông còn lưu ý tới việc sử dụng các thủ pháp văn nghệ để xây dựng nhân vậtsao cho chân thực và dễ đi vào lòng người. Vẫn là các thủ pháp thông thường trong việcmiêu tả ngoại hình, khắc họa tâm lý và độc thoại nội tâm, nhưng ông đã có ý thức đào sâuvào các tầng bậc của bản thể con người, phát hiện và lý giải một cách sâu sắc những điềutưởng như rất bình thường trong cuộc sống mà có lúc không khỏi làm người khác giậtmình.3.1.1 Mô tả ngoại hình nhân vậtTrong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975, ông đã từng bước khắc họa đượcngoại hình của nhân vật khá hoàn chỉnh, sinh động, phong phú với đầy đủ các kiểu nhân vật,ở những lứa tuổi khác nhau để phác thảo chân dung những con người trong thời khángchiến chống Mỹ cũng như trong thời gian xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Ngoạihình là một khái niệm nhằm chỉ “hình dáng, diện mạo, trang phục, tác phong,… tóm lại,là toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên ngoài của nhân vật” [5, tr. 134].Việc xây dựng ngoại hình nhân vật thay cho lời giới thiệu của tác giả về nhân vậtđó, giúp người đọc phần nào hình dung về tính cách của nhân vật. Đây là hình ảnh củamột cậu “dong dỏng cao, trắng trẻo, dáng đi mềm mại như con gái…, khuôn mặt tráixoan, đôi mắt rất thông minh, tận trong lòng mắt ẩn náu một ánh lòng đen vừa ngây thơvừa kiêu kì” [3, tr. 57]. Đó là Sơn – một chàng trai Hà Nội, anh đã cùng Lê đi khắp gầmtrời miền Trung đầy sắt thép và khói lửa. Bom đạn, bùn đất và gió Lào đã làm cho khuônmặt Sơn sắt lại, hai gò má sạm nắng, anh đã mất đi cái vẻ trắng trẻo và non nớt của mộtchàng trai Hà Nội hào hoa và lãng mạn. Khói lửa chiến tranh cùng với những khắc nghiệtcủa khí hậu làm cho ngoại hình có phần thay đổi nhưng ý chí quyết tâm chống giặc, bảovệ quê hương vẫn tăng theo cùng năm tháng kháng chiến. Khi mô tả anh Đạt trong cáidáng vẻ của một cán bộ khá trẻ với khuôn mặt đẹp, người cao dong dỏng, đôi môi nhỏ lúcnào cũng cười rất lịch sự. Anh lo cho cô Trình hơn cả bản thân mình, và cả hơn công tác.Hay qua cái nhìn của nhân vật “tôi” (Buổi tập cuối năm), cô Trình “nửa quân nửa dân”hiện lên rất thực “Cô ta mặc chiếc áo bông bộ đội to sù có đính phù hiệu ngành quân y,nhưng trên đầu lại bịt một chiếc khăn lụa vàng mỏng hất ra sau, một mớ tóc xòa ra chelấp vừng tráng hơi gồ” [4, tr. 553]. Một người chiến sĩ trẻ nhất khẩu đội, đó là Doãn(Mẩu chuyện trên trận địa), đầu trần, tóc phủ đầy cát trắng lốm đốm như mái tóc một ônggià…Ngoài ra, tác giả còn mô tả ngoại hình của nhân vật thông qua cái nhìn củanhững người xung quanh, tạo ra sự chân thực và sống động hơn: “Thoa ngắm cái mũithẳng, và món tóc uốn một cách tự nhiên trên vừng trán đang suy nghĩ của An, trongbụng vừa kính phục vừa thương hại người cán bộ đồng cấp trẻ hơn mình gần hai chụctuổi” [3, tr. 87], hay qua làn đèn tù mù của đoàn xe xích lao đi ầm ầm, Lãm đã nhận thấyvẻ xinh đẹp của Nguyệt: một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt,lời nói và tấm thân mảnh dẻ, khác hoàn toàn với nhiều cô gái công trường thường cô nào cũngthấp và mũm mĩm. “Cô ta mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dài tết thành hai dải.Chiếc làn và chiếc nón mới trắng lóa khoác ở cánh tay một cách nhẹ nhàng” [3, tr. 121]hay “chốc chốc tôi lại đưa mắt liếc về phía Nguyệt, thấy từng sợi tóc của Nguyệt đềusáng lên. Mái tóc thơm ngát, dày và trẻ trung làm sao!” [3, tr. 126]. Nhân vật “tôi” (Saumột buổi tập) nhìn những tân binh của mình trên thao trường, lúc chơi bời hay ở nhà ăn“tôi đều thấy như các cậu ấy đổ ra cùng một khuôn, cùng một vẻ ngây thơ như thỏ non,tóc để rẽ dài quá cằm xõa trùm khuôn mặt trắng trẻo như con gái, quân phục mới toanhxanh um từ chớp mũ đến mũi giầy” [4, tr. 529], đó là cái nhìn của một tiểu đội trưởng tốtnghiệp trường huấn luyện với nhũng khẩu lệnh rắn và những lời nhận xét khó khăn và cáinhìn không thiện cảm về những tân binh.Trọng yếu hơn, trong truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu khai thác rất sâu hình ảnh vềngười phụ nữ, người phụ nữ trong trang viết của ông rất đẹp – vẻ đẹp của người phụ nữđảm đang, kiên định và tính cách rất mạnh mẽ. Ví dụ, khi ông mô tả Thận trongNhành mai: “Thận gầy và già đi nhiều. Đôi mắt ngày xưa trong sáng bây giờ đã thâmquầng, hằn lên những nét lo nghĩ. Gương mặt trái xoan hiền hậu cũng trở nên rắn rỏi vàcương nghị” [4, tr. 30]. Đó là hình ảnh của cô du kích bé nhỏ của làng Đằng vụt trưởngthành trong những năm tháng chiến tranh ác liệt. Nguyệt xuất hiện trong khung cảnhrừng núi hoang sơ, là con đường ra mặt trận đầy mưa bom bão đạn như sự tương phản.Cô gái xinh đẹp trang phục đời thường giống như một sự lạc lõng trước hiện thực. Dướingòi bút của tác giả, Nguyệt hiện lên là cô gái đẹp, dáng người dỏng cao giọng trong trẻocứng cáp, đôi mắt đen lánh sâu thẳm, mái tóc dày và trẻ trung. Ngay cả những cụ thể dễquên cũng không bị bỏ sót, nó hiện dậy qua mô tả với chủ đích rõ ràng: đôi gót chânhồng, đôi dép cao su sạch sẽ, quần lụa chấm mắt cá. Đó là bức chân dung thiếu nữ toátlên vẻ đẹp thanh xuân, Nguyệt như người yêu đi gặp người yêu nơi một địa chỉ hẹn hòtình tứ, giữa khung cảnh thời bình. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh hiện thực mới thấy hết vẻlãng mạn của của nó, bom đạn chết chóc bất lực hoàn toàn trước sức sống của con người.Hành động của nhân vật, trái tim của tuổi trẻ, vượt lên thách thức của sự tàn bạo thảmkhốc. Ung dung sống, ngẩng cao đầu để sống, và bom đạn không huỷ diệt được khátvọng tình yêu tuổi trẻ.Nguyễn Minh Châu đã lưu ý tới ngoại hình của các nhân vật. Nhân vật của ông mangvẻ đẹp rắn rỏi, kiên định của con người trong chiến tranh và mang nét mộc mạc của conngười làng quê. Cách xây dựng nhân vật thông qua mô tả ngoại hình không phải là mới.Nếu như trong văn học trung đại, nhân vật được mô tả thông qua những cụ thể mangtính ước lệ, thì trong văn học hiện đại, nhân vật được mô tả hết sức đơn giản. Trongtruyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, nhân vật được mô tả với những cụ thể nhỏ nhưmái tóc, hàm răng, ánh nhìn, cùng với những cử chỉ nhỏ nhặt của một con người bìnhthường đang hiện diện đâu đó trong cuộc sống. Mô tả ngoại hình không phải hoàn toànmiêu tả hết vóc dáng của nhân vật mà chỉ mô tả một vài cụ thể để làm nhân vật hiện lênthật sinh động và chân thực hơn. Việc mô tả ngoại hình nhân vật cũng một phần nói lênđược tính chân thực của hoàn cảnh, chiến tranh là khoản cách mong manh giữa sự sốngvà chết chóc nên các nhân vật không có ngoại hình theo đúng một khuôn mẫu hay thước đochuẩn mực nào cả.3.1.2 Văn nghệ trổ tài tính cách nhân vậtMiêu tả con người là vấn đề trọng yếu của văn học mọi thời kì, nhưng mô tả nhưthế nào, ra sao để nói lên hành động, ngôn ngữ, tâm lý nhân vật đi sâu vào lòng người đọcthì lại là một vấn đề khác. Số phận và tâm hồn con người cũng là đối tượng khiến NguyễnMinh Châu không khỏi suy ngẫm, trằn trọc, với cách nhìn con người sớm có chiều sâunhân bản, nhân vật Nguyễn Minh Châu nhiều khi vẫn được soi rọi trong những luồng ánhsáng khác nhau. Ngòi bút giàu chất lý tưởng của ông không hoàn toàn đơn giản chỉ là đitìm nét đẹp, nhà văn không muốn dừng lại ở những điều đã thấy một cách đơn giản màông muốn phân tích, khai thác vào tận bên trong toàn cầu tâm hồn con người nên luôn cócái gì đó xa vời, huyền bí khó nắm bắt mà gợi bao khát khao, tìm kiếm, tìm hiểu nhân vật.3.1.2.1 Hành động nhân vậtTính cách của nhân vật là “tập hợp những nét tương đối bền vững và quen thuộccủa cá nhân thể hiện ở cách cảm nhận và phản ứng của nó đối với cuộc sống xung quanh,thể hiện ở quan hệ của nó đối với chính mình, đối với những người khác” [6, tr. 163].Gắn với cộng đồng, dân tộc, con người trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975là những con người đại diện: Lời nói và hành động trước hết không phải do bản thân màcho một ý kiến, lối tư duy của nhiều người, của tập thể.Để khắc học sắc nét, sống động tính cách nhân vật, nhà văn còn lưu ý tới nhữnghàng động của nhân vật. Qua hành động của nhân vật ta dễ dàng hiểu được cách suy nghĩvà tính cách của nhân vật. Khi mô tả cái Thơm “ngậm chiếc cặp tóc giữa kẻ răng, nónghiêng đầu về một bên, mười ngón tay bé tẹo nhanh nhẹn máy lên đường chân tóc vuốtvề sau, bàn tay cầm chiếc cặp tóc trên miệng đem gài chặt lấy cái đuôi tóc chưa đủ dài đểđổ xuống chấm gáy” [3, tr. 47], cho thấy cái Thơm tuy tuổi còn nhỏ nhưng vẫn có nét gìđó của những người con gái mới lớn. Nó còn học theo gia sư, nó cầm một tập lá đềđem phân phát cho từng bạn nữ, mỗi đứa một chiếc lá. Bọn trẻ ở nhà trẻ chỉ quanh điquẩn lại với mấy trò chơi cũ rích và rất chán. Cái trò học theo gia sư gởi thư và đọc thưlàm cho bọn trẻ trông thích thú.Hành động được xem như là kết quả cuối cùng của quá trình nhận thức, quá trình tâmlý, quá trình tình cảm. Qua hành động, Nguyễn Minh Châu muốn để cho nhân vật củamình nói lên những tư duy, tư tưởng, trạng thái của nhân vật. Hành động mang tay lênche miệng cười của Thận làm Lương cảm thấy Thận thật đáng yêu, và Thận không còn làcô du kích bỡ ngỡ ngày nào. Hàng động của Lê nhìn Sơn bằng cặp mắt của quan tòa, đểý từng cử chỉ, ngay cả Sơn cũng cảm thấy vậy, Sơn cũng không biết vì sao người pháothủ số 2 nhìn Sơn như vậy.Hành trình tìm về cái thiện, cái tốt của bò Ước (Đôi đũa trúc), từ bỏ việc làm phỉđể trở về với vợ con rất khó khăn. Hắn luôn có cảm tưởng lo sợ, hắn sợ thằng Lìn về tìmhắn, hắn muốn chặt đứt con đường đi làm phỉ tuy thế thằng Lìn lại kéo hắn trở lại.Hàng loạt hành động tiếp nối nhau của Ước như kéo tấm chăn vải che lên ngực, cầm tayvợ đặt ngang mình nhưng hắn vẫn còn sợ, hắn tung chăn vùng dậy, ngồi cứ rung lên, tayquờ chiếc điếu châm lửa hút ba bốn điếu thuốc liền như để trấn an trí não.Trong Mảnh trăng cuối rừng, Nguyệt và Lãm phải vượt qua ngầm Đá Xanh trongđêm tối và nguy hiểm, nước sâu, xe không đi được nữa. Trước tình huống như vậy,Nguyệt đã tỏ ra là một cô gái tháo vát dạn dày kinh nghiệm. Cô nhảy ùm xuống nước,bảo Lãm tắt đèn xe rồi nhanh nhẹn lội phăng qua bờ bên kia giúp anh lái xe cột dây tờivào gốc cây. Người đọc có thể hình dung ra hình ảnh cô gái thanh mảnh nhưng thật nhanhnhẹn, thành thục, giúp Lãm vượt qua những trở ngại trên con đường rừng đầy cản trở.Không chỉ có vậy, Nguyễn Minh Châu còn cho người đọc thấy một đức tính thật đángquý trong nhân vật Nguyệt, cũng là trong tâm hồn của biết bao con người trong thời kỳchống Mỹ, khi máy cất cánh địch ném bom tọa độ, Nguyệt rất dũng cảm và điềm tĩnh. Cô túmlấy Lãm kéo nhanh và khỏe hết sức, đẩy Lãm vào vật gì đó cứng và sâu, hơi thở nhanh vàbình tĩnh. Nhưng hành động của Nguyệt càng nhất định một lòng dũng cảm, gan góc lạthường. Cô không quản ngại hy sinh thân mình vì đồng đội, sẵn sàng chịu đựng hiểmnguy qua hành động nhường chỗ an toàn cho Lãm, “Anh bị thương thì xe cũng mất, anhcứ nấp đó!” [3, tr. 129]. Lời nói của Nguyệt nghe thật dứt khoát và mạnh mẽ, thật ít ai cóthể nghĩ, ẩn sâu bên trong tấm thân mảnh dẻ của cô lại là một trí não dũng cảm vữngvàng, hy sinh vì đồng đội to lớn như vậy. Và hạt ngọc trong tâm hồn cô lại một lần nữangời sáng lên. Cùng Lãm trải qua quãng đường gian nan vượt qua bao hiểm nguy,Nguyệt luôn sát cánh bên anh chiến sĩ gắn bó trong mọi tình huống. Khi bị cháy xe,cô cùng Lãm dập lửa, bảo vệ an toàn cho chiếc xe. Bởi Nguyệt hiểu nó trọng yếu nhưthế nào so với quân ta, trọng yếu hơn rất nhiều so với bản thân cô. Nguyệt nhảy xuốngđi dò đường trước, cô một lần nữa lại trở thành cọc tiêu sống giúp người bạn đồng hànhcùng vượt qua vùng đạn lửa, mang xe đến nơi an toàn. Nguyệt nhìn vết thương, cười,khuôn mặt hơi tái nhưng cô vẫn tươi tỉnh và xinh đẹp. Vì vậy, có thể hiểu vì sao đến lúcnày lòng Lãm lại dậy lên một tình yêu hầu hết mê muội lẫn cảm phục như vậy.3.1.2.2 Ngôn ngữ đối thoạiTính cách nhân vật được trổ tài sắc nét và sống động thông qua ngôn ngữ đốithoại của nhân vật. Sự hồn nhiên của cái Thơm được Nguyễn Minh Châu khắc họa rõ nétqua lời nói của Thơm: “Cô đấy, cô đi gởi thư cho chú bộ đội có khẩu súng to ấy” [4, tr.48] hay khi Thơm nhoẻn nụ cười rất xinh, bá lấy vai gia sư và thì thầm “Chúng cháubắt chước cô đấy! Chúng cháu gởi thư cho các chú…” [3, tr. 49]. Một câu nói hết sứcthành thật và có vẻ miễn cưỡng, tuy rất xấu hổ nhưng Thơm vẫn nói “nhưng mà cháukhông biết chữ”. Đoạn hội thoại giữa bác bộ đội tóc bạc và cái Thơm được Nguyễn MinhChâu mô tả rất tự nhiên:“- Cháu cần gì phải biết chữ!- Làm thế nào hả bác?- Cháu chẳng cần viết , cháu vẽ cái gì vào thư cũng được. Mà thôi, cháu cũng chẳng cầnvẽ! Cháu kiếm một mảnh giấy, hay một chiếc lá đề cũng được, cháu cầm như thế này vàmuốn nhắn gì cho các chú thì cháu cứ nói vào đấy. Ví dụ cháu nói, cháu là cháo thơmđây, cháu rất yêu các chú…- Cháu yêu các chú lắm cơ!- Phải rồi, cháu cứ nói đi…- Các chú bắn thật nhiều thằng Mỹ, và phải giữ tay cho sạch.Bác bộ đội già vẫn nhìn cô bé bằng con mắt khích lệ.- Các chú phải quấn cổ cho ấm, kẻo ho đấy!” [3, tr. 44].Có vẻ cái Thơm hết sức thích thú với cái lối viết thư như vậy, thạt dễ dàng và thoải mái.Trong đoạn hội thoại giữa bác Chắm và thằng Hạc, tác giả đã cho người đọc thấy hiện lênkhông chỉ hình ảnh của thằng Hạc mà còn thấy thấp thoáng đâu đó hình ảnh của anh haiChắm“- Mẹ nó chứ!- Mày chửi ai dó Hạc?Thằng Hạc đứng bật dậy, chỉ tay sang nhà chánh Thắm:- Cái thằng Hùng làm Việt gian chó săn ấy, sớm nay nó đi cái xe bình bịch từ trên tỉnh về,con để giỏ cua bên vệ đường, can gì đến nó mà nó cán mất rồi đá tung đi?- Mày ăn nói thế hả Hạc?- Con chẳng sợ!Bác Chắm xử nhũn, quay ra dỗ dành:- Con ạ, u bảo từ nay con đừng lảng vảng ra ngoài tỉnh nữa…- U chẳng biết gì cả. Việt Minh về gần đến tỉnh ta rồi. Hôm qua có một anh diễn thuyết ởcửa chợ Sòng, bảo toàn thể đồng bào ta phải đứng dậy giết hết Tây, Nhật với lũ chó sănđể cứu nước, phải phá kho thóc nhà giàu chia cho nhà đói!” [4, tr. 174-175]. Từ hànhđộng đến tích cách thằng Hạc rất giống anh hai Chắm, thằng Hạc vẫn đứng chấp tay sauđít, nhìn vào mặt thằng Hùng một cách ngạo nghễ và lắc đầu khi thằng Hùng hỏi về việclá cờ được treo trên cây gạo ngoài đầu xóm chợ, mười bốn năm trước anh hai Chắm vẫnchỉ giương cặp mắt xếch lên nhìn lão chánh Thắm và lắc đầu. Nguyễn Minh Châu đã đểcho nhân vật nói lên những suy ngĩ, để cho nhân vật hành động thích hợp với ngữ cảnh mànhà văn đã tạo ra.Bằng cái giọng lạnh nhạt:“- Cậu quê ở thành phố hử?- Mình ở Hà Nội, còn cậu?- Mình ở Nghệ An – Ở đây các cậu ấy gọi mình là số hai “cá gỗ”!” [3, tr. 57-58].Có vẻ Lê hơi lạnh lùng với đồng đội của mình, đó là do trong những năm Sơn cắp sáchtrên những con đường phố Hà Nội thì Lê đã phải dắt trâu trên những con đường cày trênbãi sông Lam. Nhưng khi trông thấy Sơn bị thương, Lê lại lo ngại cho đồng đội của mình.Nguyễn Minh Châu đã tạo ra những mẩu truyện trong đại đội, khắc họa tính cáchcủa những người lãnh đạo trong thời chiến cũng như trong thời bình. Có thể thấy trongChuyện đại đội, cuộc trò chuyện của đại đội trưởng An với đồng chí Thoa:“-Này đồng chí Thoa, trông đồng chí cứ ngỡ là đã phục viên về nhà ít nhất vài ba nămrồi!Ở ngoài đồng Thoa hướng dẫn cho mấy chiến si tăng gia cày vỡ đất. Họ đều là những taygiỏi ở nhà, thế mà anh vẫn cứ kêu:- Mấy cậu này, rời ra là cày đay cày lặp thế này ư? Ở nhà các cậu làm ăn cho hợp tác xãra sao mà đến đây dắt con trâu đi như vậy?… Đại đội trưởng cũng muốn cho chiến sĩ nghỉ ngơi nên đề nghị với Thoa:- Chiều nay, anh cho các cậu ấy nghỉ một buổi…- Nghỉ ư? Không đi dạo phố một chủ nhật cũng chẳng chết được nhưng không cày theonước, tuần sau đất nó chai lại, lại vác cả đại đội ra mà cuốc ư? Cái nghề làm ruộng, chỉrát lưng nhất là lúc cày cấy thôi” [4, tr. 78] hiện lên hình ảnh đại đội trưởng An tận tụyvới công việc, khởi nguồn từ những tư duy và hành động nhỏ nhất: “Anh mở xà cột, trảigiữa mặt bàn tấm bản đồ “bài tập chiến thuật” chi chít những mũi tên xanh đỏ, những ổđề kháng, những con đường tiến quân vẻ bằng những nét gạch. An đứng tựa vào bàn, haibàn tay xòe rộng đặt chùm lên một vùng đất đai đang diễn ra cuộc đấu tranh ác liệt,thỉnh thoảng chiếc bút chì gõ gõ lên đầu một cánh quân” [3, tr. 86]. Chính những hànhđộng và lời nói của An đã cho người đọc hiểu rõ thêm về tính cách, những điều nhỏ nhặtvà sâu thẳm trong tâm hồn của những người lính trong thời chiến cũng như trong thờibình.Qua những lời đối thoại trong những lúc chia tay, con người trở nên đẹp hơn, tìnhđồng chí, đồng đội, tình yêu, tình cảm gia đình càng hiện rõ. Tự và Hanh chia tay nhautrên một toa xe lửa:“- Thế nào cũng vậy nghe không? … Có về 24 chơi với tao một chuyến cho đỡ buồn,nướng sắn đồi cho mà chén. Sắn đồ thơm thiệtĐứng trên bực cửa lên xuống, tôi dang hai cánh tay ôm lấy cả người và hành lí của anhvà xiết chặt bạn vào lòng mình:- À ừ,…chắc chắn thế nào mình cũng về!” [4, tr. 579].Hay trong Những vùng trời khác nhau, cảnh chia tay của Lê và Sơn cũng gợi lênbiết bao tư duy trong lòng người đọc:“Lê ngửng lên ngắm một lần cuối vùng trời quê hương mình, nói với Sơn:- Mấy hôm nay ngày nào chúng cũng cho máy bay trinh sát…- Cậu cứ yên tâm. Chúng mình sẽ bảo vệ cái đập nước và vùng trời quê hương của cậubằng mọi giá…-Tớ rất tin… Tớ rất tin cậu!” [4, tr. 71-72].Tận trong những ý nghĩ sâu kín nhất của Lê, anh đã coi Sơn như một đồng chí thân thiếtnhất trong đời lính – “Đi nhá!”. Họ bắt tay nhau, từ biệt nhau chỉ có hai tiếng ấy. Sơn vàLê, mỗi người nhận một nhiệm vụ. Họ chia nhau tấm giáp nằm, vài tấm áo sặc mùi thuốcđạn và chia nhau khung trời Tổ quốc trên đầu. Lê khởi đầu cuộc hành quân dài, đại đội Lêkéo vào tp còn đại đội Sơn ở lại bảo vệ đập nước. Mỗi người có một vùng trờiriêng nhưng cùng chung tay bảo vệ vùng trời chung của dân tộc đang bị giặc chiếm đóng.Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một cảnh tượng chia tay giữa Lãm và Nguyệt hếtsức mới mẻ. Nếu như lúc đầu gặp nhau cả hai người đều xa lạ, những thắc mắc, những câutrả lời tiếp nối nhau:“- Có ai ngồi sau đó?- Tôi đây… Tôi nhờ đồng chí lên cầu Đá Xanh một tẹoQủa tôi đoán chẳng sai. Rõ ràng tiếng trả lời của một người đàn bà, một cô gái, tiếng nóitrong lắm và rất bình tĩnh, cứng cỏi nữa là đằng khác.Mặc, tôi vẫn hỏi gặng :- Đàn ông hay đàn bà ?- Đàn ông !- Thôi đi cô, đáng lý tôi đã mời cô xuống. Đây là xe chở hàng quân sự. Cô lên cầu ĐáXanh có việc gì ?- Em là công nhân giao thông. Anh gì ban nảy đã xem chúng minh thư rồi. Em về trênđơn vị có chút việc.Tôi hỏi bừa một câu cho vui :- Việc gì ? Hay là cô đi thăm chồng hay người yêu.- Em đi thăm người yêu đây !” [3, tr. 116].Nhưng Lãm nghe giọng nói, chẳng phải giộng một câu nói đùa, biết đâu cô ta nói thật.Người đi nhờ xe trở thành bạn đường rồi lúc mang xe ra gầm trở thành đồng đội đấu tranh,đáng lẽ Nguyệt xuống ngang quãng trạm gác bến gầm ở ngã ba, nhưng cô muốn mang Lãmđi tiếp sang bên kia sông:“- Anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư?Tôi rất nghiêm trang:-Thế nào chúng ta cũng còn gặp nhau. Mà dù cô xuống từ dưới kia, tôi cũng không baogiờ nghĩ cô là một người khi khó khăn thì bỏ người khác.- Sao vậy, anh?- Trông cô, tôi biết…” [3, tr. 127-128].Câu nói của Nguyệt trổ tài một tấm lòng và cách ăn ở thủy chung tình nghĩa, còn Lãmthì tin vào cô gái ấy – người con gái có phẩm chất cao đẹp của thời chống Mỹ cứu nước.3.1.2.3 Ngôn ngữ độc thoạiNếu mô tả ngoại hình xuất phát từ những dấu hiệu bên ngoài của con người thìđộc thoại nội tâm có đối tượng đa số là toàn cầu bên trong. Đó là những suy tư thầm kín,những lời nhân vật tự nói với chính mình, những trận đấu tranh nội tâm khắc khoải, làđối thoại bên trong với sự phân thân của nhân vật, là tiếng nói sâu thẩm trong tâm hồn.Khắc họa nhân vật qua dòng ý thức, mạch hồi tưởng, những giấc mơ chảy tràn trong tâmtrí và cả những cơn mộng du để tái hiện nhân vật trên bình diện rộng của cuộc sống. Đểkhám phá tâm hồn, tính cách hoặc gởi gắm những thông điệp tư tưởng bằng độc thoại nộitâm. Độc thoại nội tâm được xem là một trong những nhân tố quan, góp phần vào thànhcông trong việc trổ tài tâm lý, ý thức nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.Cái nhìn hướng nội đã phối hợp với hướng ngoại đã giúp ông tìm hiểu con người và đitìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn người để tiến tới sự hoàn thiện của mỗi cá nhân, tạođiều kiện để họ giằng xé trong đớn đau, những trận đấu tranh nội tâm stress. Trongdòng đọc thoại nội tâm, nhân vật tự đói thoại với chính mình trong những trằn trọc tìmkiếm đạo lý, vươn tới hoàn thiện.Nguyễn Minh Châu đã đặt nhân vật nữ của mình vào vòng xoay của quá khứ đốidiện với hiện tại để bộc lộ tư tưởng, tình cảm, trạng thái tâm lý chân thực, mãnh liệt nhất,do đó nhân vật nữ của ông thường có diễn biến nội tâm phức tạp. Ngàn (Đất rừng) đượcNguyễn Minh Châu phân tích diễn biến tâm lý, tìm hiểu phần khuất trong tâm hồn.Trong cô là một con người chứa đựng nhiều tranh chấp. Với những gì xảy ra trong cuộcđời mình, Ngàn đã được tạo dựng nên tính cách hết sức mạnh mẽ và đặc biệt. “Chị đãcan đảm đi làm đủ mọi nghề để nuôi con: đan lưới, đội than, bốc vác hàng, đập đá. Chịđi nhiều nơi nhưng cũng chẳng ở đâu lâu. Ở đâu ai cũng yêu mến tính nết của chị nhưnghình như người ta vẫn có cái gì đó ngại ngùng – chị nghĩ thế – Trong con mắt người đờinhìn chị ngấm ngầm hình như vẫn có một sự “đánh giá” thiêng lệch. Ngàn trở nên côđộc và nghi ngờ toàn bộ. Chị sống thầm lặng như một cái bóng nhưng sức phản ứng thậtmạnh mẽ, chỉ một câu nói, vô tình chị cũng đã động lòng và tủi phận bế con đi nơi khác”[4, tr. 623-624]. Hành trình trở về quá khứ với những cuộc độc thoại nội tâm đã giúpNgàn soi rõ quãng đời đã qua, làm sống dậy dòng hồi ức của quá khứ để phân tích cặn kẽnhững ý nghĩ, tình cảm, cách nhìn con người và tư tưởng sống của mình. Trong câu nóicủa Kiều “Tuy thế ở đời cũng có người thế này người thế khác. Nhưng mà ta không nênnghi kỵ tất cả chị Ngàn ạ” [4, tr. 628] thì Ngàn đã giật mình và tư duy về câu nói củaKiều “hay là Kiều đã biết rõ cái điều mà Ngàn lâu nay vẫn còn giấu kín” [4, tr. 628].Chị cũng không có ý định dối trá ai, chị chỉ không có gan nói thật những nỗi oan trái củađời mình trên vùng đất rừng xa lạ, từ lúc lên nông trường, trong lý lịch chị vẫn để trốngmục chồng con. Cơn đớn đau đột ngột của Ngàn từ cái cảm tưởng tê buốt chị rất sợ mộtđiều gì đó sắp tới trong mẩu truyện mà Kiều sắp kể, tâm trạng Ngàn lúc này rối bời,“Ngàn cảm thấy choáng váng, ruột gan cứ xáo trộn lên. Cả cuộc đời của chị cũng nhưmảnh đất rừng gai góc và đầy bí ẩn dưới chân đang trải qua một cơn vật vã đau đớn đểlật tung lên cái chất đất màu mỡ” [4, tr. 632] khi nghe được “tôi cũng biết chị muốn vềxuôi chỉ vì quá nhớ cháu. Tôi đã nghĩ kỹ rồi, ta cứ đưa cháu lên trên này, đội chưa cóvườn gởi trẻ thì cứ gởi tạm bà dì tôi trông dùm, bà cụ tôi rất tốt, chị đừng nghĩ gì cả” [4,tr. 631]. Một niềm hạnh phúc xuất hiện trên gương mặt Ngàn, Ngàn nghĩ đến đứa con đãgây cho cuộc sống chị biết bao nhiêu đắng cay nhưng không thể nào sống xa nó được. RồiNgàn lại tư duy: “Hóa ra ở trên đời này vẫn còn nhiều người tốt? Ngàn cố lục trong trínhớ, điểm mặt từng người đã gặp hồi xưa nhưng chị không tài nào nhớ ra được Kiều” [4,tr. 633]. Tình yêu của Kiều vẫn dành cho Ngàn, có xen chút tình thương và lòng kínhtrọng. Từ trong đáy lòng của Ngàn có tiếng nói thật thiết tha: “Anh Kiều ạ, anh là bộ độilại còn trẻ, anh còn bạn bè và vinh dự của mình. Cuộc đời của Ngàn – chị nhìn xuốngmặt con – dầu sao cũng đã có vết rồi, Ngàn không muốn anh phải cột mình vào làm gì.Sao anh không yêu một người con gái khác, xung quanh còn bao nhiêu người trẻ đẹp vàtrong trắng hơn” [4, tr. 643-644]. Nhưng nếu Kiều yêu một người khác thì sao? Ngànkhông tin vào điều ấy, và chỉ có người đàn ông như Kiều mới yêu thương Ngàn bằng mộttình yêu chân tình và không khi nào hất hủi chị. Cái niềm hạnh phúc mới Ngàn giơ tayđón lấy nhưng lại cảm thấy thấp bé không dám với tới nhưng vẫn kì vọng và chờ đợi.Ngòi bút của Nguyễn Minh Châu còn luồn lách vào những tầng sâu tâm lý củacon người, dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu, người phụ nữ đã tư duy và hànhđộng theo động lực của bản thân. Đó là Hương (Đất quê ta), một diễn viên sống trọn vớinghề “nghệ thuật chân chính chỉ làm cho tâm hồn người nghệ sĩ tốt đẹp hơn lên” [4, tr.649]. Đến một ngày Hương được nhận vai chính trong một bộ phim truyện trong nước,chính cuộc sống người phụ nữ đau khổ và thủy chung trong phim và cuộc sóng thực đãgiúp Hương nhận thấy chính mình. Mỗi cảnh trong phim bắt buộc Hương phải tư duy,những câu nói cảm động của nhân vật cũng chính là lời nói của Hương, nhưng khi về nhà,những lời thoại đó như để nói riêng với Hương. Hương tìm lại con người mình quanhững trang nhật kí, những kỉ niệm lại chợt ùa về, cuộc sống đã đẩy mang và làm Hươngthay đổi, trở thành người khác. Hương đã trở về quê với tấm lòng của một người biếtmình có tội lỗi nhưng thật nhẹ nhõm. “Hai giọt nước mắt bỗng dưng ứa ra trong khóemắt, Hương rảo bước cứ sợ như chưa về kịp tới nhà thì cơn khóc đến bất chợt đã òa ragiữa đường” [4, tr. 674] và đã hai năm rồi Hương không về nhà để khóc thật to bên mẹvà đứa con gái.Nguyễn Minh Châu đã quản lý được biện pháp văn nghệ độc thoại nội tâm, ôngđã sử dụng linh hoạt và đã chạm khắc được tâm trạng của nhân vật. Trước mắt Lãm làmột cảnh tượng: một cô gái ôm chiếc nón trắng đang đứng sát cửa xe và những câu hỏicủa anh tài phụ… Lãm chợt nghĩ sau thắc mắc của mình : “Ai ngồi trong đó?” chắc ngườingồi phía sau xe sẽ sợ “chắc người ấy đang phấp phỏng sợ tôi không cho đi nhờ, nhưngngười đó là ai?” [3, tr. 116]. Đó chỉ là mấy phút phân vân trong trong trận đấu tranh tưtưởng của Lãm. Không thể quên được những lần độc thoại nội tâm với những suy tư, trăntrở với những thắc mắc cứ thấp thoáng hiện lên trong đầu Lãm về tình yêu thủy chung vàsự chờ đợi bao năm của Nguyệt: “Và cũng thật lạ! Qua bấy nhiêu năm sống giữa bomđạn và tàn phá, mà một người con gái vẫn giữ bên lòng hình ảnh một người con trai chưahề gặp và chưa hứa hẹn một điều gì ư? Trong lòng cô ta, cái sợi chỉ xanh nhỏ bé và óngánh, qua thời gian và bom đạn vẫn không phai nhạt, không hề đứt ư? Hạnh phút ngườicon gái ấy đem đến cho tôi quá nhiều. Cho nên tôi cảm thấy mình là một kẻ chịu ơn” [3,tr. 119-120]. Một trường hợp đặt biệt là trong đời lái xe của Lãm chưa khi nào mời mộtcô gái lên ngồi trong buồng lái. Sau mỗi lần hỏi cô gái bên cạnh về tên gọi Nguyệt ở gầmĐá Xanh, tâm trạng của Lãm lại thay đổi “- Cô Nguyệt hy sinh bao giờ? – Tôi vội hỏi, rõràng nghe tiếng nói của mình mà như của người khác… Tôi thở phào và nói đùa một câunhạt thếch! Lòng tôi rối như tơ vò. Chẳng lẽ lại hỏi thăm cô ta có biết chị Tính hay không?Chỉ cần hỏi thế, mọi sự sẽ vỡ lẽ ngay nhưng tôi vẫn không muốn hoặc không dám hỏi. Tôikhông muốn đi sâu vào câu chuyện riêng giữa chuyến công tác. Thế nhưng tôi vẫn cứphải phân vân: trong hai người con gái, một trẻ và xinh đẹp ngồi bên cạnh, và một ngườiđã chết anh dũng, ai là người đã từng mang canh cánh trong trái tim tuổi trẻ mối tìnhđầu với tôi suốt mấy năm, mà tôi lại tỏ ra hờ hững? Một trong hai người, ai là người tôisắp tìm đến. – Ai? Người tôi sắp tìm đến là ai? Câu hỏi ấy cứ xoáy trong óc tôi, như mộtcái dùi nung đỏ bỏng rát. Nếu Nguyệt đã hy sinh thực thì tôi sẽ mang hối hận suốt mãimãi” [3, tr. 123-124]. Và trong Lãm vẫn có niềm tin rằng người con gái đang ngồi cạnhLãm chính là Nguyệt. Lúc nào Lãm cũng thấp thỏm bên mình hình ảnh của Nguyệt vàluôn tự hỏi “qua bấy nhiêu năm tháng sống giữa bom đạn và cảnh tàn phá những cái quýgiá do chính bàn tay mình xây dựng nên,vậy mà Nguyệt vẫn không quên tôi sao? Trongtâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu và niềm tin mảnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉxanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn giội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tànphá nổi ư?” [3, tr. 135]. Đó là những dòng độc thoại nội tâm chứa chan xúc cảm yêuthương và ngưỡng mộ với biết bao điều do dự, trằn trọc.Bò Ước (Đôi đũa trúc) luôn có cảm tưởng lo sợ, hắn sợ thằng Lìn về tìm hắn, hắnmuốn chặt đứt con đường đi làm phỉ tuy thế thằng Lìn lại kéo hắn trở lại. Bao nhiêusuy nghĩ trong đầu Ước đều liên quan tới thằng Lìn, từ trong lòng hắn, có tiếng thằng Lìncăn dặn “nó âm mưu mở lớp học để đưa đi cải tạo, cải tạo tức là đi giam đấy. Nó đemxuống vùng xuôi bắt ở nhà đất cũng đủ chết thôi” [4, tr. 598], một nỗi lo ngại lặng lẽ đãbắt đầu len vào trong đầu óc hắn. Trong lòng Ước cứ xáo trộn lên một nỗi niềm vừa tintưởng vừa nghi hoặc, vừa lo sợ, vừa chờ đợi với lại Ước sợ một cái gì đó quá thân thiếtgắn bó ngày một khăng khít giữa thằng cán bộ Bính với vợ chồng hắn rồi hắn lại phảinghĩ đến bàn tay chuốt mây của Bính, rồi không hiểu sau hắn liên tưởng tới thằng Lìn.Như vậy, với thủ pháp độc thoại nội tâm, Nguyễn Minh Châu đã có những khámphá mới về chiều sâu tâm hồn con người, khắc họa đậm nét tâm lý, tính cách nhân vật. Đisâu vào những diễn biến tư tưởng, những trạng thái trí não, những đột biến tâm lýtrong dòng độc thoại nội tâm, nổi đau của số phận, tính chất hướng nội của nhân vật thểhiện rõ với sự mổ xẻ tâm lý , ý thức tự phân tích, tự phán xét nghiêm khắc, trung thực.Với sự phấn đấu không ngừng của một ngòi bút tâm huyết, Nguyễn Minh Châu đã thâmnhập vào toàn cầu bên trong đầy huyền bí để khai thác những tầng bậc đời sống tâm linh, đểnhân vật bộc lộ mình chân thực, sinh động như vốn có.3.2 Thời gian và không gian nghệ thuậtThời gian và không gian văn nghệ khác với thời gian và không gian trong hiệnthực. Nếu trong hiện thực không gian và thời gian vận hành theo quy luật của tự nhiên thìtrong văn nghệ nó trổ tài điểm nhìn, điểm xem xét, cách nhìn không gian và thời giancủa tác giả, đã được tác giả sắp xếp, lựa chọn để mang một chất lượng mới, một giá trịthẩm mỹ mới3.2.1 Không gian nghệ thuậtTrong sáng tác văn học, không gian văn nghệ luôn là yếu tố trọng yếu để tạonên giá trị, ý nghĩa cho tác phẩm. Tư tưởng về không gian văn nghệ ở từng thời kỳkhác nhau, nó gắn liền với điểm nhìn của nhà văn với những xúc cảm và ý nghĩa nhânsinh. Vì thế, mỗi nhà văn phải khéo léo vận dụng, tạo ra không gian riêng để người đọcthực sự cảm thu được cuộc sống, tâm tư của nhà văn muốn gởi gấm qua tác phẩm. Vàkhông gian trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 thật sự tạo ấn tượng chongười đọc về khung cảnh chiến trường, thao trường huấn luyện, những vùng đất mớiđược khai phá, những công trường của ngày đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miềnBắc.Không gian văn nghệ trong những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh thường làkhông gian hiện thực rộng lớn. Viết về đề tài chiến tranh nên không gian được trổ tài làkhông gian chiến trường. Dõi theo cuộc hành trình của các nhân vật người đọc có thể biếtđược vùng đất xa xôi miền biên giới sát nước Lào, đó là vùng bản Pa-khen có dòng suốiquanh năm nước chảy trong lòng đất ấm (Nguồn suối) hoặc một làng Đằng có dòng sôngThong ẩn mình trong sương bị xơ xác điêu tàn trước sự tàn phá của giặc, có sức gợi nhớ,gợi thương cho người đi xa (Nhành mai). Người lính cao xạ lại có mặt tại thị trấn miềnTây Quảng Bình hít thở ngọn gió Lào nóng rát da, rồi từ giới tuyến ra Quảng Bình, từQuảng Bình lại vào giới tuyến, từ bờ biển đèo Ngang kéo pháo lên Bãi Hà, từ Bãi Hà kéopháo xuống đồng bằng bảo vệ đường số Một, có lúc lại ra thẳng đến Hà Nội (Những vùngtrời khác nhau), không gian của người lính lái xe là những con đường miền Tây ngangqua gầm Đá Xanh “quãng đường dốc, từng mảng rừng, lèn đá, những bãi tranh ngỗnngang hố bom” [3, tr. 124] và có cả “con đường thấp hẳn xuống, quanh co, sục lên mộtthứ bùn quánh nhão nhoét quanh những hố bom cũ và mới” [3, tr. 127] – nơi gặp mặt tìnhyêu của những người cùng chung ý tưởng (Mảnh trăng cuối rừng). Không gian chiếntrường trong thực tại có khi vị trí không rõ rệt, mang tính trừu tượng, chung chung,đó là một vườn trẻ rời tp về làng cạnh con đường cái trên đường đi Nam tiến củangười lính (Lá thư vui), hay một xóm đạo nghèo ven núi nơi người lính cao xạ dựng trậnđịa pháo (Người mẹ xóm nhà thờ) hoặc có lúc là doanh trại đại đội đóng tạm tại tp(Chuyện đại đội). Nhìn chung, không gian sáng tác của Nguyễn Minh Châu luôn dichuyển, mở rộng không ngừng để tạo ra những hoàn cảnh bạt ngàn, rộng lớn và làm nềncho các sự kiện.Trong sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu thường lưu ý tới hoàn cảnh thiênnhiên – thiên nhiên gắn với nhân vật và hoạt động của nhân vật. Trong Mảnh trăng cuốirừng, khung cảnh nổi trội được nhà văn chọn lựa là đêm trăng đẹp giữa núi rừng. Trên cáinền lãng mạn ấy, đôi trai gái không hẹn nhưng có duyên gặp mặt và đi cùng nhau giữađường nét mềm mại, ánh sáng êm dịu ảo mộng: “Gió tây nam xào xạc trên những chỏmrừng, sương mù đùn ra như sữa thỉnh thoảng từ thung lũng vang lên một tiếng chim mơhồ, xe trôi trong sương bồng bềnh dưới trăng thanh…”[4, tr. 125] Một bức tranh thiênnhiên tuyệt đẹp với không gian yên tĩnh huyền bí tràn ngập chất trữ tình, tạo dựng khungcảnh cho một cuộc tình xuất hiện. Nổi trội nhất là hình ảnh trăng, ban đầu trăng xuất hiệnlà một mảnh trăng nhợt nhạt, có lúc trăng tinh nghịch, thấm nhiễm vào màn sương…Nhưng vẻ đẹp lãng mạn bừng sáng dưới trăng được dấu hiệu khi trăng ùa vào buồng lái.Trăng làm hình ảnh người rạng rỡ, vẻ đẹp tự nhiên thánh thiện của Nguyệt hiện dậy,khuôn mặt cô lồng đầy bóng trăng, từng sợi tóc của cô sáng lên. Và trong khônggian rộng bạt ngàn của đêm rừng hỏa tuyến, trăng toả xuống thắp sáng đêm trên con đườngxe chạy… Nhà văn đã tái hiện được khung cảnh truyện tràn ngập chất thơ và phần lunglinh nhất của nó là ánh trăng non nguyên sơ thanh khiết. Đắm mình trong khung cảnh ấyngười đọc thấy hiện thực kịch liệt chết chóc bị đẩy lùi. Hiện lên trên trang văn là cả thếgiới thiên nhiên Trường Sơn hoang sơ, tinh khiết, huyền bí, thơ mộng. Sức sống bất diệtthiên nhiên không thể bị lụi tàn trước sức mạnh huỷ diệt của chiến tranh, sức sống và sựthơ mộng ấy cũng chính là vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên, nó hoàn toàn không phải làcảnh trí siêu thoát trên cõi thần tiên mà trái lại nó rất thực. Không gian Trường Sơntrong tháng ngày khó khăn cũng trở nên thi vị, dịu dàng hơn với ánh trăng trong trẻotrong cảm nhận của Lãm. Hai không gian hoàn toàn tương phản nhau nhưng lại cùngxuất hiện trong Lãm, sự tương phản đó không phá vỡ cấu trúc của truyện mà còn hỗ trợnhau trong việc tái hiện chân thực trận chiến tàn khốc đồng thời cũng nhất định đượcvẻ đẹp của niềm tin yêu bất tử mà con người đang có. “Doanh trại của đại đội 7 đóngtrên trái đồi Con Rùa thấp và soải dưới chân núi K.L.xanh ngắt những nương sắn.Khung cảnh đồi sắn hiện lên trước mắt, trên lưng đồi, dưới lòng khe, trên lưng chừngdốc núi, nương sắn xanh bạt ngàn như cả cánh rừng” [4, tr. 579-560], và hình ảnh củanhững đồi sắn làm sống lại những ngày tháng nơi chiến trường của nhân vật “tôi” trongđại đội 24 cũ. Mẩu chuyện của cô Ngàn và anh Kiều diễn ra trên vùng đất Tây Bắc, trongkhung cảnh của một khu rừng với tiếng chim hót rụt rè, con đường rừng lầy lội giữa cáisườn núi bừa bộn những gốc cây đổ nghiêng ngửa, cây, dây leo chằng chịt và trongkhung cảnh của cái lán mới mang tên “khu gia đình” đang được dựng lại trên một vùngmới sắp khai phá kế bên đồn biên phòng. Trong hai không gian đó, tình yêu của Ngàn vàKiều được nảy nở, họ hiểu về nhau nhiều hơn. Và không gian ở cuối truyện “con đườngnhỏ giữa hai hàng cây cao vút và cứ đi xa mãi […] bóng tối mịn màng và mát rợi phủxuống những mái cỏ gianh mới lợp” và hình ảnh mặt trăng nhô lên dần sau rặng núi“trăng đã lên cao càng sáng soi lên vệt đường rừng còn in rành rành những dấu chânngựa” [4, tr. 645], một tương lai tươi sáng sắp mở ra cho cô Ngàn lẫn anh Kiều.Núi rừng Pa-khen, dòng suối Pa-khen luôn ấm áp tình người là nhân chứng đi vàocuộc chiến ở một vùng biên giới “chúng tôi chưa tới Pa-khen mà núi đã cao lắm. Mớiquá trưa mà sương sa trắng rừng núi. Ban ngày, nhiệt độ xuống dưới không. Ban đêmcàng buốt. Nhiệt độ xuống rất thấp nhưng con suối bên đường vẫn chảy rì rầm” [3, tr. 7]và không chỉ có thế, dòng suối cũng là nơi minh chứng cho tình yêu “sau khu rừng limgià là vách núi đá Pa-khen trần trụi và hùng vĩ, sương khuya phủ kín thung lũng. Từ trênđầu dốc núi Lào cao ngất và thanh vắng, nguồn suối Pa-khen đỗ trắng xóa” [3, tr. 18],ngọn suối xoáy vào lòng đất mang cả mối tình đầu mãnh liệt của Ngạn và cô gái Y Kiêuchợt réo như thác. Mối tình mãnh liệt của Lương và Thận (Nhành mai) qua năm thángđược dòng sông Thong làm minh chứng , dòng sông từng gắn bó kỉ niệm của hai người“Ơi! Sông Thong đây rồi!” [3, tr. 26].Cục diện xã hội trong tác phẩm được tái hiện nhằm làm nổi trội cuộc sống của mọitầng lớp trong xã hội, trong đó có mối quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội, đồng thời cũngthể hiện hoàn cảnh và số phận con người trước những thúc đẩy của xã hội đó. Không gianvề những năm tháng khổ sở và thử thách vô cùng ác liệt, những đau thương tột cùng mànhân dân ta phải gánh chịu trước sự tàn bạo điên cuồng của Mỹ và bọn tay sai, dườngnhư đâu đâu chúng cũng có mặt và tội ác chúng gây ra cho dân tộc ta nơi nào cũng có, đólà khung cảnh của xóm nhà thờ hiu quạnh và cỏn con bị máy cất cánh giặc ném bom (Ngườimẹ xóm nhà thờ) hay khung cảnh của cái làng Lác với hàng trăm nóc nhà, phần lớn là giađình thợ thuyền nằm kề thị xã Đà Nẵng cùng với căn nhà của anh Lâm bị bọn Mỹ dồn đinơi khác để lấy đất làm sân cất cánh phản lực. Không gian hoàn cảnh trong Những hạt thóc léplà không gian của làng Truồi trong những ngày giữa mùa xuân năm 1945. Một khônggian chết chóc, không gian xuất hiện với hình ảnh khung trời hẹp và thấp lè tè, những đámmây xám ngắt và cáu bẩn, những con đường ngăn ruộng ngập đầy cỏ xước, con đườnglàng Truồi ngập rác bẩn và khởi đầu lở lói. Đối lập với cảnh đói ngoài kia là nhà lão chánhThắm, con đường cao và sạch sẽ, đến ngang một hàng rào hoa cắm mảnh chai dài dằngdặc thì con đường được lát đá phiến Thanh Hóa nhẵn bóng, ở cuối xóm, trông ra bãi thama rộng, là túp lều của hai mẹ con bắc Chắm gái. Trong Vợ nhặt của Kim Lân, cảm quancủa cái đói thấm đến cái nhìn cảnh vật, nó không chỉ hiện hữu trên những xác chết đầyđồng, những thể xác rã đi vì đói mà còn nhuốm màu chết chóc lên cảnh sắc không gian,cái xóm ngụ cư tồi tàn, những dãy phố úp súp, ngã tư xóm chợ xác xơ heo hút, những conđường nhỏ, khẳng khiu sâu thăm thẳm luồng giữa hai bờ tre cao vút… Trong cuộc sốngmấp mé giữa cái sống và chết chóc, Kim lân vẫn nhìn thấy ở họ lòng yêu đời, ham sống vàNguyễn Minh Châu cũng có sự tin tưởng vào những con người trong cảnh đói này.Khung cảnh sinh hoạt của những đại đội, những công trường, những vùng kinh tếmới cũng được Nguyễn Minh Châu tái hiện với những không gian riêng. Không giantrong Chuyện đại đội là cái doanh trại ở trong một nhà chứa xe cũ, nơi làm việc đượcmiêu tả rất tỉ mỉ: “Các trung đội chỉ ngăn cách với nhau bằng hai chiếc tủ để súng… Banchỉ huy đại đội ở một gian con, ngăn ra bằng những tấm phên liếp treo la liệt biểu đồhuấn luyện, khẩu hiệu, tranh vẽ anh bộ đội đứng gác… Một cánh màn gió bằng vải đỏtreo ở cửa ra vào. Bàn giấy đại đội gồm hai chiếc bàn kê liền nhau, bộ ấm chén, phíchnước và một chiếc đồng hồ cũ kỹ đặt giữa bàn” [3, tr. 75]. Đó còn là cảnh Thoa cầm đènpin đi xác minh từng giường ngủ của chiến sĩ, cảnh con trâu của đại đội đẻ được con nghécon. Dù ở bất kì hoàn cảnh nào, nhân vật của Nguyễn Minh Châu vẫn thích ứng và có thểtạo nên những không gian người hùng.Không gian của những con phố Hà Nội được Nguyễn Minh Châu thổi hồn vào làmcho nó nổi trội thêm giữa những ngày xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. “Từ dướiđường phố nhìn lên cao, bầu trời Hà Nội cũng chia thành từng đường phố, từng cửa ô vàlấp lánh như lồng kính [3, tr. 72]. Cái con phố hẹp hiện lên không gian mà Sơn từng sinhsống với “những mảnh tường đứng tựa vào nhau, những mái nhà mỏng mảnh cao thấplô nhô, vỉa hè và lòng đường không rải nhựa mà lót toàn một thứ gạch cổ” [3, tr. 72].Nhà Sơn là ngôi nhà một tầng, núm cửa sơn đen và bậc thềm gạch xây chìa ra đường.Nguyễn Minh Châu đã cho nhân vật của mình cảm nhận về không gian của thủ đô “đấtphù sa sông Hồng chuyền sang người Lê một cảm giác mát lạnh – “Như thế là mình đãđứng ở đây” – Lê chợt nghĩ một cách thú vị – bên cạnh Hà Nội, cái tp Thủ đô màSơn từng thân thuộc từng gốc cây, từng mảnh tường và cả từng sắc mây trên nóc phố”[3, tr. 74]. Hay cái đường phố mà những người lính mới giành lại từ trong tay quân thù,có một sức quyến rũ mạnh mẽ, “bên cạnh khu doanh trại uy nghi và trang nghiêm, thànhphố vẫn tỏa lên bầu trời đêm đen như nhung một quầng ánh sáng dịu dàng, như ánh mắtcủa một người con gái trẻ vừa hiền hậu vừa mơ mộng” [4, tr. 756] bởi đường phố ngàychủ nhật với rất nhiều chỗ tiêu khiển, rạp hát, các cửa tiệm mậu dịch, nhũng gánh hàng thịtbò khô, hàng phở, hàng bánh đa nướng và ngô nướng…Không gian trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu là không gian về cuộc sống đầysống động, từng khoảng trống gian riêng của đời sống sinh hoạt, không gian khốc liệtcủa cuộc kháng chiến hòa quyện vào nhau. Từ đó tổng quan được không gian rộng lớncủa cuộc kháng chiến chống Mỹ, những nhận thức của con người trong thời kì.3.2.2 Thời gian nghệ thuậtBên cạnh không gian văn nghệ thì thời gian văn nghệ cũng góp phần làm phongphú, phong phú nội dung và là phương tiện hữu hiệu để tổ chức nội dung của văn nghệ.Thời gian văn nghệ có thể nhanh hay chậm, dài hay ngắn, liên tục hay đứt quãng theomột logic riêng không hoàn toàn trùng khớp với thời gian khách quan. Vì thế, thời giannghệ thuật là thời gian mà ta có thể cảm thu được, ý thức được vận tốc, nhịp điệu pháttriển của nó theo ý đồ của tác giả. Trong truyện ngắn của mình, Nguyễn Minh Châu đã sửdụng rất khéo léo sử dụng hai kiểu thời gian sự kiện và thời gian nhân vật đã đem lạinhững ấn tượng sâu đậm trong những trang văn của ông.Thời gian sự kiện là chuỗi liên tục các sự kiện trong quan hệ liên tục trước sau, vậnđộng theo quy luật nhân quả hoặc theo trình tự tác giả đặt ra. Các sự kiện có thể được sắpxếp đẳng tuyến theo trình tự trước sau như nó vốn xảy ra theo trật tự tuyến tính, cũng cókhi các sự kiện được sắp xếp xen kẽ, đảo tuyến các yếu tố quá khứ, hiện tại, tương lai.Trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, thời gian sự kiện xuất hiện sắc nét là một chiến dịch,một cuộc hành quân, một cuộc truy kích, một trận chống càn… Tất cả chúng ta có thể thấy hơithở của lịch sử đậm nét trong truyện ngắn của ông trong mảng đề tài chiến tranh, biến cốlịch sử đều gợi về một giai đoạn kháng chiến của dân tộc, truyện ngắn Nguồn suối,Nhành mai nhắc đến một thời kháng chiến chống Pháp khổ sở hào hùng, âm hưởng củacuộc kháng chiến chống Mỹ trong những ngày đầu chống chiến tranh phá hoại miền Bắctìm thấy trong Những vùng trời khác nhau, Người mẹ xóm nhà thờ.Thời gian trần thuật và thời gian cốt truyện có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đượcsắp xếp theo trật tự trước sau nghiêm ngặt, việc trước kể trước, việc sau kể sau và cứ thếcho đến hết mẩu truyện. Với cốt truyện khá đơn giản, mờ nhạt về kịch tính và xung đột,mỗi mẩu truyện là một lát cắt ngang rất nhỏ trong cuộc sống hay trong chính con người.Chuyện một em bé ở vườn trẻ thật đáng yêu trong việc dùng lá bồ đề làm thư mong gửiđến các chú bộ đội (Lá thư vui) hay chuyện con trâu tăng gia sản xuất của một đại đội đẻtrong bao lo ngại, hồi hộp và vui mừng của cả đại đội (Chuyện đại đội), mạch trần thuậtxuôi dòng với mạch truyện trong mối quan hệ nhân quả, trước sau của các sự kiện. Thờigian sự kiện trong Những hạt thóc lép là thời gian tuyến tính với các sự kiện lần lượtđược xảy ra, Sự kiện này còn là nguyên nhân để sinh ra sự kiện khác: từ sự kiện cái đóibao trùm lên làng Truồi, đến sự kiện lá cờ đỏ trên cây gạo đầu xóm, cuộc duyễn thuyết vềthắng lợi của Việt Minh ở cửa chợ Sòng, rồi đến sự kiện cướp kho thóc nhà chánh Thắm.Thời gian khách quan từ điểm mở màn đến điểm kết thúc trần thuật có sự xáo trộn, câuchuyện khởi đầu ở hiện tại sau đó quay ngược về quá khứ và cuối cùng lại trở về hiện tại.Trong Nhành mai, nhân vật “tôi” khởi đầu mẩu truyện của mình ở hiện tại khi được giaonhiệm vụ trở về làng Đằng tiếp tục kháng chiến. Sau đó quay trái lại về những dònghồi cố khi nhớ về làng Đằng với công việc xây dựng chính quyền mới ở nơi đây. Thờigian trong Những vùng trời khác nhau cũng được khởi đầu bằng hiện tại với mốc thời giancụ thể “giá không có đợt báo động lúc 4 giờ sáng thì Lê còn ngủ” [3, tr. 55]. Sau đó lạiquay về quá khứ, khởi nguồn từ quá khứ gần là giấc mơ đem qua của Lê đến quá khứ xa hơnở những ngày đầu Lê và Sơn bết và thân nhau trong những trận địa pháo cao xạ, luônchuyển đi từ vùng trời này sang vùng trời khác. Rồi lại trở về thời khắc hiện tại, là mỗingười nhận một nhà cung cấp và tiếp tục đấu tranh bảo vệ vùng trời thiêng liêng trên đầu. Nhưthế, không khí khẩn trương của trận chiến được cảm nhận và mô tả tập trung hơn. Tácphẩm càng ít mô tả thì nhịp điệu tác phẩm, dòng sự kiện trôi càng nhanh. Nguyễn MinhChâu còn sử dụng thành công thời gian đứt nối, hồi tưởng, nhà văn đã vận dụng sáng tạothời gian xáo trộn trật tự các sự việc. Trong số đó người kể chuyện không còn ở ngôi thứ nhấtxưng “tôi” từ đầu đến cuối nữa mà cho các nhân vật tự kể lại cuộc sống của mình. Khoảngthời gian trong tác phẩm đi cùng với từng khoảng thời gian của cuộc cách mạng dân tộc,chất chứa những sự kiện trọng đại, chuyển động cùng với nhịp vận động của dân tộc.Thời gian trong tác phẩm là một dòng chảy tiếp nối quá khứ để hiện tại đến tương lai.Hiện tại, quá khứ đều được đặt chung một điểm nhìn, điểm nhìn này khiền tất cả chúng ta cócảm giác mọi việc như đang diễn ra trước mặt.Chính những hoạt động tâm lý, dòng kí ức tạo thành dòng thời gian nhân vật làm chongười đọc ý thức được sự tồn tại của nhân vật. Thời gian cứ trôi, nhưng nó đánh dấu mộtmốc sự kiện xảy ra với con người có nhiều thay đổi, thời gian bị đảo ngược hay đồnghiện về những đoạn hồi cố của nhân vật trong truyện làm ra số phận cuộc sống nhân vật.Nhành mai là một mẩu truyện ghi lại một khúc đoạn thời gian sống và làm việc trênmảnh đất làng Đằng của Lương, là nhân vật chính trong truyện. Toàn bộ được kể trong sựđan xen giữa hiện thực và quá khứ, giữa cảnh thật, người thật với từng phiến đoạn rời rạccủa cảnh cũ người xưa lần lượt trở về trong niềm suy tưởng của nhân vật. Lương đã yêuthương và quý mến vùng đất và con người làng Đằng như yêu quý một thứ gì quá đỗithân thương, khi xa rồi thấy nhớ và không dứt ra được “trong đời lính tôi đã đi qua nhiềunơi, đâu cũng có nhiều kỉ niệm nhưng mảnh đất làng Đằng vẫn gắn bó với tôi hơn cả” [3,tr. 22]. Xúc cảm về làng Đằng vẫn vẹn nguyên trong dòng hoài niệm của Lương, trongdịp trở về làng Đằng lần này, anh không thể quên những gương mặt thân quen trongnhững ngày đầu khởi nghĩa, trước hết là Thận: “Thận đỡ tôi nằm trên tấm ván lát mạnđò. […] Thận cẩn thận gài lại mép chăn cho tôi rồi cúi xuống, sát hơn: “anh chóng lànhđể trở về giết thật nhiều giặc nhé – Anh đừng quên em!”” [3, tr. 27]. Kỉ niệm mãi ghikhắc trong lòng nên đã 5 năm qua rồi mà tiếng vỗ của dòng sông, trí não chiến đấudũng cảm và tình thương dịu dàng của Thận vẫn luôn trở về và từng hồi thức dậy trongnổi nhớ của Lương. Để quá khứ và hiện tại đan xen, ngòi bút của Nguyễn Minh Châu sửdụng như một phương tiện diễn tả hiệu quả cái thuộc về toàn cầu bên trong nhân vật, câuchuyện về Lê, Sơn, tình đồng chí gắn bó nhau giữa người lính cao xạ đã rút được khoảngcách ngắn hơn: “Thế là hôm nay, Lê đứng dưới bầu trời Hà Nội, cạnh những người đồngđội mới và cũ. Trời gần sáng, sau lưng Lê, thủ đô đầy biến động như một cái tổ ong vừathức giấc” [3, tr. 73]Nguyễn Minh Châu đã vận dụng rất thành công thời gian nhân vật, tạo cho người đọcý thức được sự tồn tại của nhân vật. Từ cái ngày nhân vật “tôi” gặp Doãn lúc Doãn lênbốn tuổi, và hầu như Doãn chỉ sống quanh bên khung cửi với chị Kiên, cũng từ ngàyDoãn theo nhân vật “tôi” lên tàu ra Bắc cuộc sống Doãn có nhiều thay đổi và lớn lên giữađồng bào miền Bắc, thời gian cứ trôi qua và Doãn đã mười lăm tuổi, đã tốt nghiệp lớpbảy, học hết cấp hai rồi học dang dở năm hai trung cấp cơ khí rồi xung phong đi bộ đội vàtrở thành một pháo thủ xuất sắc của khẩu đội. Cuộc sống của Doãn gắn liền với những mốcthời gian của cuộc đấu tranh không chỉ ở Đà Nẵng mà còn ở Hải Phòng. Thời gian nhânvật còn hiện rõ qua cuộc sống của Ngàn, từ lúc làm cấp dưỡng ở một đơn vị thươngnghiệp lưu động đóng ở vùng biển, cho đến khi trót lầm lỡ với anh cán bộ “hải sản”“ngay lúc ấy, bước chân ra đường Ngàn đã trở thành một con người khác hẳn trước vàcuộc đời xung quanh “cô gái Tờ-ri-cô-da” xưa cũng đã lật trái lại hết thẩy rồi” [4, tr.622-623]. Thời gian luôn là thước đo cho sự chờ đợi, Nguyễn Minh Châu đã vận dụngyếu tố thời gian trong tác phẩm để làm nổi trội nhân vật của mình, qua biết bao năm thángKiều vẫn đợi để yêu thương Ngàn, qua từng ấy năm tháng sống giữa bom đạn và sự tànphá của chiến tranh vậy mà Nguyệt vẫn không quên Lãm, bác Chắm vẫn không quên bốthằng Hạc, những chiến sĩ của đại đội 24 vẫn không khi nào quên những đồng đội cũcủa mình, sau hơn ba năm sống chung với nhau, từ cái ngày mà Sơn và Lê còn ngồi trênhai chiếc ghế sắt của một khẩu 37 cũ kỹ, và kể từ ngày Sơn bị thương nhưng cả hai Sơnvà Lê đều nhớ về nhau.Tất cả chúng ta có thể thấy những xúc cảm, sự kiện ít có hồi tưởng dài, khoảng cách giữathời gian của quá khứ và hiện tại không xa. Thời gian “năm năm rồi, lúc nào tôi cũngnhư trông thấy một mép khăn mỏ quạ bay lất phất trên cái cổ cao rám nắng, và thanh mãtấu in hằng xuống một bên vai áo nâu cứ đánh lách cách bên thanh đòn khiêng” [3, tr.34]cái khoảng cách năm năm ấy hình như được rút ngắn lại, gốc mai già, lớp tro đencủa cái nhà bị cháy, cả người con gái tên Thận và bà mẹ người hùng, vẫn không thể nàoquên được (Nhành mai). Mẩu chuyện của hai người lính cao xạ Sơn và Lê khi gặp lạinhau sao bao ngày xa cách bởi cái vết thương của Sơn vẫn còn sắc nét trong tâm trí của haingười, những trận đánh, những kỉ niệm khi sống cùng đồng đội được nhà văn rút ngắn lạibởi những dòng tư duy của Sơn và Lê (Những vùng trời khác nhau). Hay câu chuyệnvề Người mẹ xóm nhà thờ của nhân vật “tôi” cứ tưởng đâu sẽ chuyện này tiếp nối chuyệnkia theo một trật tự tuyến tính nhưng những mẩu truyện của mẹ Lân lại làm đứt khoảngcái hiện tại để trởi về quá khứ với những đau thương mà mẹ phải gánh chịu. Những ngàyhòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Nguyễn Minh Châu vẫn cho nhân vậtcủa mình hồi tưởng lại những ngày đấu tranh khổ sở, tuy thời gian qua chưa lâu nhưngnhững người lính vẫn nhớ về đồng đội cũ, nhà cung cấp cũ bằng những mẩu truyện kể rất chânthật “câu chuyện đại đội 24 ngày xưa mở đột phá khẩu đồn Phương Xá. […]. Nhữngkhẩu súng ngày xưa cùng lớp người trước lao vào trong lữa đạn bây giờ đang bỏng rátlên trong bàn tay mới nắm thật chắc. Khi chiếc kèn dê rúc lên một hồi dài báo hiệu pháođã chuyển làn thì họ ào lên tưởng mặt đất và biển nắng cũng rung động. Lại vẫn cái khíthế chiến đấu cũ – không biết tôi có chủ quan không? – Vẫn những tia mắt tóe lửa dướiánh chớp bộc phá trước cửa đột phá đồn Phương Xá đang sống lại kia!” [4, tr. 588].Không chỉ tìm hiểu chiều sâu thời gian càng tạo ra nhiều xúc cảm và sự thấu hiểu vớinhân vật. Thời gian đúng đắn trong Chuyện đại đội tạo một không khí khẩn trương, gấpgáp, thời gian trôi thật chậm, và mọi chuyện đều được tính bằng thời gian “lúc ấy mới haigiờ rưỡi sáng. Thoa nhảy xuống giường, mặc quần áo, xỏ đôi giày vải… Báo cáo thủtrưởng, nó đẻ từ lúc mười một giờ ba mươi phút, đến bây giờ vẫn chưa hết rau” [3, tr.82], thời gian so với các chiến sĩ rất trọng yếu:“- Bây giờ là hai giờ bốn mươi hai phút rưỡi.Đồng chí phát lệnh báo động lúc mấy giờ?(…) Thoa ấp úng đáp:- Tôi quên xem giờ…khoảng già hai giờ rưỡi” [3, tr. 85].Hay cái thời gian cụ thể còn trổ tài khá sắc nét trong Buổi tập cuối năm ở những ngàygiáp Tết. “Chuyến xe lữa buổi tối 10 giờ 30 phút rất vắng khách, chỉ có những người cóhoàn cảnh đặc biệt mới đi chuyến tàu cận giờ giao thừa này. 12 giờ 30 phút tôi xuống gathị xã X. Pháo con trên các phố đã nổ lép bép rồi dần dần vang rộn lên. Khói pháo tỏa ramù mịt hòa với hơi thở ấm áp của mùa xuân đang tươi tắn bước về” [4, tr. 567]. Cái Tếtcủa người lính hình như bận rộn hơn, trể hơn mọi người, nhưng cái không khí Tết vẫntràn về với thời gian gấp gút.Bên cạnh thời gian thực tại hay quá khứ của chiến tranh, Nguyễn Minh Châu còn chongười đọc cảm thu được thời gian của tương lai, những ước mong về cuộc sống tốt đẹphơn. Cơn mưa xuân “chẳng nghe tiếng pháo đón giao thừa, cô giáo trông trẻ cũng nhậnra cái khoảnh khắc mùa xuân đang đến. […]. Mưa xuân như làn bụi phấn ấm áp rơingoài cánh đồng, thấm vào từng gốc mạ non xanh mơn mỡn” [3, tr. 53] (Lá thư vui), tạonên một cảm tưởng mới lạ cho gia sư trẻ lẫn bé Thơm, một mùa xuân nữa lại về, vớinhững lá thư được gởi đi và những lá thư bác bộ đội già mang thư về tạo thêm những độngviên, khích lệ cho các chiến sĩ ngoài mật trận, Người dân là Truồi vẫn ước mong về một tươnglai tươi sáng hơn, không còn cảnh chết vì đói nữa, họ vẫn tin vào tương lai, vẫn tin ViệtMinh sẽ đến giúp họ, và chính lá cờ Việt Minh là tín hiệu mới về một sự thay đổi xã hộirất to lớn, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người (Những hạtthóc lép), vậy mà có ai ngờ, những người lính cũng không ngờ được rằng sáu, bảy nămsau họ đã lấy vợ và sinh con đẻ cái trong cái tp xa lạ mà họ đã giành lại từ trongtay quân thù, trong những ngày nghỉ, họ được sống bên cạnh người vợ trẻ và những đứacon bé nhỏ dưới mái nhà ấm cúng (Vùng sáng ở chân trời). Hay trong Bính (Đôi đũatrúc) rộn lên một niềm mong ước mới mẻ và vô cùng tha thiết “bao giờ anh sẽ được về nhà,hai người sẽ có một đứa con?” [4, tr. 611]. Nhiều chiến sĩ đã mong ước được thấy ngày hòabình, một mái nhà gianh mới dựng trên nền đất còn đầy tro than, một bế đò bên đồn địchnườm nượp người qua lại, những gia đình gồng gánh bồng bế nhau tìm về quê cũ haychỉ đơn giản “bao giờ thống nhất nước nhà, chúng mình phải mua cho con bác Bản mộtthứ đồ chơi gì thật đẹp, đẹp hơn con búp bê này nhiều” [4, tr. 571]. Thời gian nghệ thuậttrong truyện ngắn trước 1975 được Nguyễn Minh Châu xây dựng rất đặc sắc, thời gian từxa đến gần, từ thực tại quay về quá khứ, hay từ quá khứ tới thực tại, ước mong và tương laiđã tạo ra những mẩu truyện sinh động. Qua đó tác giả trổ tài được cách nhìn nhậnchân thực, cụ thể về số phận, cuộc sống của con người.Văn nghệ trổ tài không gian và thời gian trổ tài ý đồ của tác giả và quan niệmnghệ thuật về con người. Không gian và thời gian văn nghệ không chỉ mang tính nộidung, diễn tả đề tài tư tưởng của tác phẩm mà còn trổ tài được cái nhìn, cảm hứngcủa nhà văn. Cùng là không gian địa lý bạt ngàn, rộng lớn, không gian văn nghệ thuộc đètài chiến tranh trước năm 1975 phối hợp với thời gian sự kiện là nơi để cho con người thểhiện ý chí cách mạng, một không khí đầy ân tình cách mạng với tình đồng đội, đòng chí,tình nghĩa đồng bào. Nguyễn Minh Châu trổ tài thời gian và không gian nghệ thuậtdưới hướng nhìn tích cực, không âm u, không bi lụy, người đọc như cùng gắn bó vớinhân vật.3.3 Ngôn từ nghệ thuật3.3.1 Ngôn từ nghệ thuậtTrong văn chương, ngôn từ là vật liệu xây dựng nên những hình tượng nghệthuật, đồng thời ngôn từ cũng là vật liệu sáng tác văn học “Ngôn từ là lời nói mà ngườita dùng làm chất liệu để sáng tác văn học và xây dựng nên những hình tượng nhân vậtsống động hơn” [13, tr. 183]. Vì vậy, trong quá trình sáng tác, việc lựa chọn từ ngữ là hếtsức trọng yếu để tạo ra sự mới mẻ của mỗi nhà văn.3.3.1.1 Văn nghệ sử dụng từ ngữNguyễn Minh Châu là nhà văn có tâm huyết với nghề, ông cũng trằn trọc trong việctìm cho mình một cách trổ tài, ông từng ví nhà văn như một người thợ thủ công “bằngmột cách thức tài nghệ riêng biệt của mình, đập từng chữ ra để tìm cho được cái nghĩanguyên thủy của nó, rồi lại bằng một cách thức riêng biệt không có ai giống ai và khôngthể bắt chước được, đem ghép những con chữ ấy lại với nhau thành câu, thành đoạn,thành chương, Nguyễn Minh Châu tâm sự: “Mỗi nhà văn có một cách viết riêng nhưngcuối cùng và trước hết đó là những con người có một thứ khả năng đem đến cho ngônngữ đời sống một thứ ma lực mà ta gọi là ngôn ngữ văn học, có thể chuyển tải được mọithứ tình cảm, tư tưởng của mình đến với mọi người. Ngôn ngữ văn học nói chung cũngnhư câu chữ trong một tác phẩm, nó vừa là hình hài lại cũng vừa là linh hồn của tácphẩm. Làm sao có một linh hồn khỏe mạnh, sáng suốt, cường tráng trong một cơ thể ọpẹp, già cỗi? Đừng bao giờ quên: mỗi chữ là một hạt của nội dung” [2, tr. 265]. Suốt cuộcđời sáng tác, Nguyễn Minh Châu đã phấn đấu cho điều này và ông đã thành công.Nguyễn Minh Châu là nhà văn có vốn từ tương đối phong phú và ông cũng đã tỏ rathận trọng, lựa chọn khi sử dụng từ. Từ địa phương được ông sử dụng khéo léo làm chocâu chuyện mang sắc thái riêng gắn liền với từng địa phương. Ông dùng từ “hử” trongcâu hỏi của Lê “Cậu quê ở thành phố hử?” [3, tr. 57] để nhất định một vùng quê đầygió Lào – Nghệ An của Lê hay “Bên tê… Bên tê sông. Chỗ tiếng mái chèo hướng thẳngsang” [3, tr. 63] mang đậm phương ngữ miền trung. Những từ “chăn vải Mèo”, “cáiphiên nhà”, “bản Liền”, “bò Ước”, “bò Chai”, “phỉ” hay cách xưng hô “mày – tao”trong Đôi đũa trúc là những đặc trưng của người dân miền núi. Đó là những địa danh nhưPa-thét, Pa-khen ở vùng cao sát biên giới, và sông “Nậm Mộ và Nậm Na là hai con sôngtừ rừng miền Tây đổ về gặp nhau ở ngã ba Cửa Rào, làm thành con sông Lam chảy rabiển” [3, tr. 8], từ những nhánh suối nhỏ không tên làm ra con sông lớn ở miền Tây Bắcđất nước. Nhiều địa danh của miền Trung nắng gió được tác giả đem vào truyện ngắnNhững vùng trời khác nhau tạo ra cái riêng cho tác phẩm: cánh bãi sông Lam, QuảngBình, bờ biển Đèo Ngang, bãi Hà, đồi Vĩnh Linh, cầu Bùng, cầu Hổ, Hàm Rồng, NamĐịnh, Phủ Lý, đèo Ngang hay Quán Hầu… đó là những vùng trời mà những người línhpháo thủ đã đi qua và để lại một phần nỗi nhớ, một nửa tâm hồn ở đấy. Hình ảnh miềnBắc cũng xuất hiện với những địa danh như sông Sa Lung, đồi Con Rùa, núi K.L.xanh, đồnPhương Xá (Gốc sắn) hay những đô thị ở miền Trung như Đà Nẵng, Hội An, QuảngNam, Huế, vùng Cầu Hai, Lập An, Hòa Vang. Nhà văn rất có ý thức trong việc lựa chọnngôn ngữ của từng vùng miền vừa tạo cho lời văn một khả năng diễn tả trong sáng vừatạo nét riêng không thể lẫn lộn.Thỉnh thoảng tất cả chúng ta vẫn bắt gặp một số từ vay mượn từ nước ngoài: át-pi-rin,Tờ-ri-cô-da, véc-ni, xe Xkô-đa, Bát-tô, tạch-tạch-sè… Những từ ngữ mang đậm chấtquân sự như: Huấn luyện quân sự, bài tập chiến thuật, tác chiến tấn công, khoa mục, thaotrường, tập huấn… Những từ ngữ này được sử dụng khá tự nhiên, thích hợp với văn cảnh.Từ Hán Việt cũng được sử dụng nhiều như “Đây là giang sơn của em rồi” [3; Tr.131](Mảnh trăng cuối rừng), từ gian sơn vừa mang ý nghĩa tự hào, tự tin của Nguyệt đã thôngthạo chổ ở của mình vừa để đùa vui hay từ Trẫm và thị vệ trong câu “-Trẫm nay trong dạbất yên… truyền thị vệ khiêng luôn… cả ghế!” [4, tr. 559] thấy được cái dí dỏm, lạc quancủa Bản (Buổi tập cuối năm) trong khi cái đầu húi cua, cái nước da vàng kí ninh sốt rét.Qua cách nói của giới bộ đội có thể hình dung được sự vui nhộn, dí dỏm. TrongNhành mai, trung đội trưởng Vũ đã nói với Lương: “Đừng có giả đò nữa bố ạ” [3, tr. 20]hay khi giới thiệu mình với Sơn, anh đã nói: “Các cậu ấy gọi mình là số hai “cá gỗ”” [3,tr. 58] hay khen bạn bằng cách nói vui tính: “Thằng này đánh nhau được!” [3, tr. 60](Những vùng trời khác nhau). Cách Nguyệt hỏi Lãm: “Anh đi bóng “quả táo” hay đibóng “quả dưa” đấy?” [3, tr. 121] (Mảnh trăng cuối rừng) hay những người lính củađại đội 24 gọi nhau vui “-Tự hả? “Vua húc” còn sống đấy hả?” [4, tr. 572], “Demxanh” đấy hả? Ông bạn thân thuộc, 24 đây chơi vào!” [4, tr. 574]. Tác giả còn chongười đọc ngạc nhiên về cách sử dụng từ “Tôi yên trí để anh đi nhặt lựu đạn. Một lát sau,Tự trở về hầm và chìa cho tôi một “quả” : một củ sắn nướng thơm phức” [4, tr. 575]. Từngữ được tác giả sử dụng một cách tự nhiên, có sức gợi cảm và được đặt rất đúng chỗ.Nhà văn thật xuất sắc khi tìm thấy các từ và phối hợp chúng với nhau để đạt hiệu quả caonhất cho câu văn. Hơn thế nữa, các từ ngữ này “khi đã được tái hiện lại trong tâm tríngười tiếp thụ thì có khả năng rung động mọi cảm giác của con người” [25, tr. 255]. Đólà quá trình lao động công phu để có thể đạt tới mức không có một từ khác trong ngônngữ có thể thay thế được. Nguyễn Minh Châu phối hợp từ “đôi mắt” và “quân sự” thành“đôi mắt quân sự” của nhân vật “tôi” (Sau một buổi tập) tạo một căng thẳng lên những tânbinh, ông dùng “nửa quân nửa dân” để tả cách ăn mặc của cô Trình “Cô ta mặc chiếcáo bông bộ đội to sù có đính phù hiệu ngành quân y, nhưng trên đầu lại bịt một chiếckhăn lụa vàng mỏng hất ra sau, một mớ tóc xòa ra che lấp vừng tráng hơi gồ” [4, tr.533]. Từ “nửa quân nửa dân” đã nói lên hết tính cách của cô y tá Trình. Sự phối hợp giữanhững người lính của đại đội 24 thành “lính 24” với một nhận xét rất rắn rỏi “Lính 24không phải loại xoàng nhé!” [4, tr. 573]. Tên nhân vật thỉnh thoảng được ghép bởi tên gọi vànghề nghiệp, không phải trong tác phẩm nào cũng có: cô Ngàn Tờ-ri-cô-da, anh “Hảisản” v.v…“Qua tấm kính ướt hơi sương, mảnh trăng nằm giữa những tảng mây hiện ra táingắt, ánh sáng lòe nhòe, mỗi lúc xe nảy lên hay vòng qua chỗ lượn, mảnh trăng lại chậpchờn lay động, có lúc lại thấy rơi tõm xuống khoảng tối của rừng già” [3, tr. 125]. Ánhtrăng nhẹ nhõm trong sáng len lỏi khắp nơi, xua tan cái vắng lặng, âm u của rừng già,giữa khoảnh khắc stress và im ắng của chiến tranh. Ánh trăng càng trở lên xinh đẹphơn khi chính nó làm sáng bừng lên vẻ đẹp của Nguyệt. “Mảnh trăng khuyết đứng yên ởcuối trời sáng trong như một mảnh bạc” [3, tr. 125], những tia sáng lấp lánh lồng đầykhung cửa xe khiến cho mỗi sợi tóc của Nguyệt đều ánh lên. Cuối truyện là hình ảnhtrăng “rồi trăng đội chỏm cây từ từ nhô lên (…) Ánh trăng khuya lặng lẽ soi đầy trênmái, và đoạn đường đầy vết xe trước cửa” [3, tr. 136]. Ngôn ngữ trong đoạn này là sự kếttinh, sự chọn lọc và nâng cao của từ ngữ, nó có khả năng tạo ra chất thơ cho câu văn vàluồng lách vào tận những nổi niềm sâu kín trong toàn cầu nội tâm của con người. VàMảnh trăng cuối rừng là một mẩu truyện đẹp đậm màu sắc lãng mạn gợi sự tìm kiếm vàphát hiện “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người”, điều mà Nguyễn Minh Châu luôntrăn trở suốt dời cầm bút của mình. Hạt ngọc ấy ông đặt vào Nguyệt, người con gái đã tạoấn tượng cho người đọc một sức sống trong trẻo lạ kỳ. Lãm do dự tự hỏi về sức sốngmãnh liệt của sợi chỉ xanh bé nhỏ trong lòng Nguyệt, tái hiện lại hiện thực chiến tranh từcái nhìn của người đang yêu, cái tôi nội tâm, cái tôi tâm lý của nhân vật hoàn toàn lấn áccái tôi chủ quan.3.3.2 Văn nghệ sử dụng cấu trúc ngữ phápVề phương diện cú pháp, cách sử dụng câu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước1975 là những câu giản đơn, ngắn gọn và dễ hiểu, cấu trúc câu văn linh hoạt hơn với việcnới rộng các thành phần cú pháp, tăng trưởng các yếu tố mô tả, giải thích nhằm đi sâu khámphá và trổ tài những nét mới mẻ của nhân vật. Phần lớn câu văn của tác giả là câu đơn,ít có sự phức tạp về thành phần câu với lối ngắt nhịp hài hòa: “Hẳn đã gần sáng. Ngoàirừng sâu, đôi chim gọi nhau suốt đêm đã im tiếng, có lẽ chúng đã tìm thấy nhau. Chântrời phía rừng Tây đã ửng sáng. Rồi trăng đội chòm cây từ từ nhô lên. Từng chiếc láđùng đình trên nóc lán lóe sáng như những mảnh bạc. Ánh trăng khuya lặng lẽ soi đầytrên mái và đoạn đường đầy vết xe trước cửa” [3, tr. 136] (Mảnh trăng cuối rừng). Hay“Cây đề bên đường đã trút hết những chiếc lá đỏ tía. Chưa qua hẳn mùa đông, nhưngmùa xuân đã dọn đường sang. Nắng mỗi ngày một mỏng và nhẹ, vàng rực lên chen giữanhững trận mưa bụi. Những chiếc lá đề vàng hoặc đỏ tía rơi sát mặt đất” [3, tr. 45] (Láthư vui). Trong Chuyện đại đội khi kể lại cảnh chăm sóc cho con trâu, tác giả chỉ sử dụngcâu đơn, lời kể và lời tả tách bạch rõ ràng “trong giàn, con trâu mẹ đang nằm thở rấtmạnh. Chợt trông thấy cái bóng gù gù, hơi thấp của Thoa hiện ra trước cửa, con trâu mẹvội vàng chống hai chân trước đứng dậy. Những chiếc móng đập xuống mặt đất lộp bộp.Chi chạy đi nhóm bếp. Anh đặt chiếc xoong trên những hòn gạch và gây lửa. Ánh lửabùng lên soi vào đôi mắt của con trâu mẹ ươn ướt. Chẳng mấy chốc, xoong cháo nấu chocon nghé đã sôi. Thoa đặt bàn tay lên lưng trâu mẹ thấy mồ hôi ướt dơm dớp. Thoa vuốtve sống mũi nó. Con vật ngước đôi mắt ướt hiền lành nhìn Thoa” [3, tr. 82]. Việc sửdụng câu đơn, thành phần câu không quá phức tạp giúp người đọc có thể nắm bắt ngắngọn được nội dung mà tác giả muốn truyền đạt.Với Lê (Những vùng trời khác nhau) thì con người bên trong của anh được ngườiđọc tiếp nhận và thấu hiểu đa số qua lời bộc bạch xúc cảm chân tình “Anh nghe rõtiếng mái chèo đặc biệt của con sông quê anh. Tiếng mái chèo đò dọc chậm rãi và uể oảixuôi sông Lam thuở lọt lòng Lê đã nghe rồi nhớ không dứt ra được. …. Tiếng mái chèochạm vào sông kia như có hồn, như chiếc khóa cửa chỉ chạm đánh tách một tiếng nhỏnhưng đủ cho hai cánh cửa gian nhà mở ra. Gian nhà ấy lâu nay vẫn đóng im im. Dùcuộc sống nhiều vất vả, Lê cũng có một gia đình” [3, tr. 63]. Với những câu văn ngắn,theo đó dòng xúc cảm ngọt ngào sâu lắng mà Lê dành cho quê hương hay nổi buồn khi xabạn đấu tranh “chao ôi chẳng phải là lần đầu tiên Lê biết thế nào là một nổi buồn xa bạnchiến đấu và vùng trời quen thuộc nhưng khi từ biệt Sơn để đưa đơn vị ra ngoài này, vộiquá. Lê chẳng biết nói gì với Sơn mà trong bụng có rất nhiều điều muốn nói” [3, tr. 71]giúp người đọc hiểu thêm về người chiến sĩ cao xạ giàu kinh nghiệm đấu tranh và cũngrất sâu dậm nghĩa tình. Hay nỗi lo sợ thấp thởm của nhân vật Ước được khắc họa cụ thểqua những điều Ước vẫn còn nhớ và đang tư duy trong giây phút hiện tại mà Ước đangsống với vợ con được nhà văn mô tả bằng những câu ngắn gọn. Trong giấc ngủ chậpchờn, Ước nhớ lại chuỗi tháng ngày khốn cùng, đói khổ và tủi nhục mà hắn phải chịu đi làmphỉ với thằng Lìn. Tiếng nói của ý thức phản kháng và ước muốn được làm lại cuộc đờivang lên thật yếu ớt trong con người Ước “hắn muốn chặt đứt con đường đi làm phỉnhưng sao mà chẳng được” [3, tr. 599]. Và một nỗi lo sợ ngấm ngầm dần choán lấy tâmtrí “Ước không về với chúng nó là người làm phản đấy. Đứa làm phản thì thằng Lìnchẳng tha cho bao giờ đâu” [4, tr. 595] hay “nhưng sao mà chẳng được”, “là người làmphản đấy”, “chẳng tha cho đâu”, lý giải sinh động quá trình tranh đấu tư tưởng của Ướcgiữa một bên là mái ấm gia đình và sự giúp đỡ chân tình của Bính, người chiến sĩ cáchmạng với một bên là sự cám dỗ của bọn phỉ.Nhiều lần Nguyễn Minh Châu đã sử dụng câu văn dài, từ ngữ giàu hình ảnh tạo raniềm tin, kì vọng và chân tình trong xúc cảm “mắt tôi cứng lại vì hình ảnh vừa qua đụcđẽo trong trí óc. Tôi ngồi suốt buổi trưa bên giấc ngủ của tiểu đội, thử phỏng đoánnhững giấc mơ và cuộc đời khác nhau trên các khuôn mặt các chiến sĩ của mình như mớigặp họ lần đầu, trong lòng có muôn cánh bướm đập nhẹ mà náo nức” (Sau một buổi tập).“Càng về sáng, sóng biển càng dữ càng xô mạnh vào bờ. Trước nòng pháo của Doãn lànhững cồn cát trắng tinh tưởng đi không bao giờ hết. Khi trời sáng hẳn, người pháo thủchính thức đưa mắt lên quan sát bầu trời, mà sao bầu trời cũng xanh một màu xanh củavịnh biển?” (Mẩu chuyện trên trận địa). Hình thức câu văn dài, nhịp điệu dàn trãi, dấuchấm hỏi kết thúc câu đã phát huy tác dụng trong việc diễn tả tình cảm dạt dào tha thiếtcủa nhân vật. Là tình yêu thương, lòng tự hào khi hướng tới vẻ đẹp của quê hương, vẻđẹp của tình quân dân trong lao động, đấu tranh.Tác giả sẽ tạo cho người đọc cảm tưởng tin cậy hơn về độ khách quan của câuchuyện, ngôn ngữ kể chuyện cũng hợp lý hơn và giàu tính thuyết phục hơn. Ở nhiềutruyện ngắn của mình, Nguyễn Minh Châu thường sử dụng ngôn ngữ kể chuyện vớinhững câu văn dài để thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính cùng khoảnh khắc sống khẩntrương mà thấm đượm nghĩa tình ở khoảng giữa hai trận chiến, trí não trách nhiệm,tác phong quân sự và tình người đáng quí của người lính cũng được trổ tài một cáchsinh động và tự nhiên qua chuỗi hành vi, lời nói và việc làm cụ thể. Bức chân dung vềThoa, An và nhiều người lính khác mỗi lúc một hiện lên sắc nét trong sự sắp bày cạnhnhau của những cụ thể văn nghệ giàu giá trị diễn tả mà tác giả cố ý lựa chọn. Ở An, đólà sự chuẩn mực trong tác phong quân sự lộ rõ ở vẻ trẻ, khỏe, linh lợi, có kinh nghiệmchiến đấu và tính cách yêu thương đầy trách nhiệm của người chồng trong sinh hoạtthường nhật, gần một tuần lễ, An cứ ngày huấn luyện bộ đội, đêm lại ra nhà chiêu đãirang cám chườm bụng cho vợ. Với Thoa thì không gì trổ tài rõ hơn về anh qua nhữnglời nói trực tiếp: “Với chiến sĩ, tôi đề nghị các đồng chí phải rèn kỷ luật nghiêm, nhưngmặt khác phải hiểu tâm tư người ta… Tôi đã hai thứ tóc trên đầu, tôi nghiệm thấy cán bộchiến sĩ không yêu thương nhau thì chiến lược, chiến thuật đến đâu cũng đố mà đánhgiặc được” [3, tr. 64]. Đó là lời nói chân tình nêu cao trách nhiệm của người lính trongviệc giữ gìn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.Câu văn dài với cấu trúc phức tạp tạo điều kiện để đi vào toàn cầu nội tâm của nhânvật, phân tích tận cùng ngóc ngách thuộc về riêng tư, thầm kín của mỗi nhân vật. Bằngngôn ngữ của mình, nhân vật “tôi” kể về cuộc sống và đấu tranh của người chiến sĩ cáchmạng trong những ngày tháng tập luyện ráo riết để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lần haicủa dân tộc: “Trong những ngày giáp tết này, tôi quyết định đi theo một tiểu đoàn củatrường bổ túc sĩ quan hiện đang học tập chiến thuật dã ngoại. Tình huống đặt ra: quânđịch đổ bộ và tấn công từ mạn bể; ban đầu chúng ta cầm cự từng bước dụ quân địch tiếnsâu vào vùng núi rồi chuyển sang phòng ngự cố thủ, đồng thời dùng lực lượng lớn phảncông và truy kích tiêu diệt chúng” [4, tr. 551]. Buổi tập cuối năm cũng là mẩu truyện vềTrình và Đạt, hai người yêu nhau nhưng cách nhìn và nghĩ lại không cùng một phía.Trình là hình ảnh tiêu biểu cho nữ dân quân giỏi gian, tháo vát và giàu trí não tráchnhiệm. Trong khi đó, Đạt dù tích cực trong công tác kháng chiến nhưng cái ích kỷ vốn cótrong tình yêu đã khiến anh phải nghĩ nhiều hơn đến sự an nguy của người yêu mình vàquan trọng là mái ấm tương lai mà anh đang vun vén được tác giả mô tả chỉ một câu“nguyện vọng của anh là: Cưới nhau xong anh sẽ xin cho Trình chuyển ngành hoặc ít ralà được thuyên chuyển về cơ quan tĩnh tại vì anh cho rằng phụ nữ ở đơn vị chiến đấu vấtvả, không thể theo kịp được” [4, tr. 556].3.3.3 Văn nghệ sử dụng các biện pháp tu từTrong cách diễn tả của Nguyễn Minh Châu, ông rất hay sử dụng các biện pháp tu từnghệ thuật, chính nhờ những biện pháp này câu văn diễn tả được linh hoạt, mượt mà, cóchiều sâu. Biện pháp so sánh được ông sử dụng nhiều, “người chiến sĩ bỗng cảm thấymột niềm vui bâng khuâng, y như có một nụ chồi xanh vừa nảy ra trong lòng mình”(Nhành mai), niềm vui đã được tô đậm thêm, có màu sắc hơn qua sự so sánh khá chínhxác. “Những giọt mưa ly ty như ngọn cỏ chích vào da mát lạnh” (Chuyện đại đội) gợicho người đọc một cảm tưởng rất thật. Trong Gốc sắn, ông đã so sánh “tất cả những kỷniệm về đơn vị cũ giống như những viên ngọc trai nằm sâu dưới đáy lòng người lính, kýức gìn giữ nó và luôn chiếu ánh sáng chói lọi vào, làm cho cuộc đời người bộ đội giàuthêm ý nghĩa và đẹp đẽ hơn” [4, tr. 576], tô đậm thêm lòng tự hào, tình cảm gắn bó vớiđơn vị cũ, những đồng đội, chiến sĩ cũ. Bên cạnh ấy nhà văn còn sử dụng biện pháp ẩn dụ,trong Mảnh trăng cuối rừng hình ảnh “sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh”, sợi chỉ xanh làtấm lòng thủy chung của Nguyệt so với Lãm, làm tăng thêm vẻ đẹp trong tâm hồn củaNguyệt. Khi diễn tả khí thế đấu tranh của người lính của đại đội 24, ông đã viết “Vẫnnhững tia mắt tóe lữa dưới ánh chớp bộc phá trước cửa đột phá đồn Phương Xá đangsống lại kia!” [4, tr. 588]. Thêm một hình ảnh so sánh mới mẻ của ông “Đũa trúc có đôi,cũng như tao với mày là anh em. Mày đừng làm mất, tội lắm!” [4, tr. 615] làm tình cảmcủa người dân và người cán bộ thêm gắn chặt. Người đọc có thể cảm thu được cảm xúcsâu lắng yêu thương của Lương với điều anh nhìn thấy và cảm nhận “đêm nằm nghetiếng suối chảy róc rách, thầm thì, nho nhỏ thôi nhưng tôi thấy con suối sao mà gan gócvà đáng kiêu hãnh” [3, tr. 8]. Câu văn dàn trãi hơn bởi sự xuất hiện của các từ láy tạo âmhưởng hài hòa “róc rách”, “thầm thì”, “nho nhỏ”, “gan góc” tạo ra dáng vẻ của con suốikhông tên ở bản Pa-khen.Thắc mắc tu từ được sử dụng nhiều, với dụng ý không phải để hỏi mà để khẳng địnhhay phủ định xúc cảm, nó không đòi hỏi câu trả lời. Nguyễn Minh Châu đã thành công ởviệc trổ tài tình cảm của nhân vật qua dạng câu này. Trong mảnh trăng cuối rừng: “Tôiđứng bên bờ sông, giữa cảnh một chiếc cầu đổ và lại tự hỏi: Qua bấy nhiêu năm thángsống giữa bom đạn và cảnh tàn phá những thứ quý giá do chính bàn tay mình xây dựnglên, vậy mà Nguyệt vẫn không quên tôi sao? Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé, tìnhyêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn dộixuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi ư?” [3, tr. 135] Qua một loạt câuhỏi tu từ nhất định, Lãm đã trổ tài sự khâm phục, yêu thương và ngạc nhiên trước tìnhcảm thủy chung, gắn kết của Nguyệt so với Lãm. Thắc mắc tu từ trong trường hợp này đãđạt được giá trị biểu cảm cao, có ý nghĩa nhất định làm cho hình tượng nhân vật đẹp đẽlên gấp đôi. Lời độc thoại nội tâm của Lưu (Sau một buổi tập) xuất hiện nhiều thắc mắc tutừ “sau đây nên giúp đỡ cậu chiến sĩ này như thế nào? Có lẽ phải gọi riêng để chỉ chocậu ta hiểu rõ cái tư tưởng nhớ nhà, ngại gian khổ không muốn tập luyện…” [4, tr. 532],tuy trước những khẩu lệnh rắn và lạnh lùng như sắt nguội, và những lời nhận xét, chấnchỉnh muốn đè dẹp đầu người nghe xuống sau mỗi đợt tập không ưng ý nhưng đồng chítiểu đội trưởng vẫn quan tâm đến những tân binh của mình.3.4 Giọng điệu nghệ thuậtGiọng điệu là một trong những yếu tố văn nghệ có ý nghĩa nhất để tạo ra phongcách của nhà văn. Mỗi tác giả tạo cho mình một giọng điệu riêng trong tác phẩm: chấtgiọng trữ tình thống thiết của Nguyên Hồng, giọng trào phúng, đã kích của Vũ TrọngPhụng, Nguyễn Công Hoan, giọng khách quan, tinh táo của Nam Cao, giọng tâm tìnhnhỏ hẹ của Thạch Lam. Ở Nguyễn Minh Châu, chất trữ tình trong văn xuôi là đặc điểmcó tính xuyên suốt, nhưng vì xúc cảm sáng tác của các giai đoạn có khác nhau nêngiọng điệu trổ tài có khác. Truyện ngắn trước 1975, giọng văn mang âm hưởng hàohùng gắn liền với trữ tình, bởi đề tài đề cập đến những cái to lớn như yêu nước, đấutranh chống ngoại xâm và xúc cảm ngợi ca là chủ đạo. Cách kể của tác giả ở hầu hết cáctruyện đều đậm màu sắc lạc quan, tươi tắn dù có đề cập đến những hy sinh, chết chóc. Cảnhvà người dưới mắt nhìn và chổ đứng của Nguyễn Minh Châu đều được kể, được tả trongvẻ hào hùng, sôi nổi, tài hoa. Trong truyện Nguồn suối, Lá thư vui, Nhành mai, Mảnhtrăng cuối rừng… giọng điệu chính đều ấm áp hiền hòa, ngay khi bước vào cuộc chiếnđấu, không khí vẫn bình thản và lòng người lại càng bình thản.Giai đoạn đầu hiện thực trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu phần lớn là hiệnthực chiến tranh nhưng ông nghiêng về khai thác chất thi vị của trận chiến. Ông chú ýlàm bật lên tình cảm của nhân vật, vẫn mượt mà, đằm thắm trong cái kịch liệt của chiếntranh, lạc quan vẫn có thể vút lên từ chết chóc, cái mất mát. Những mối tình hồn nhiên,tươi sáng trong chiến tranh như Ngạn và Y Kiêu, Lương và Thận, Lãm và Nguyệt, tìnhbạn tốt đẹp giữa Lê và Sơn. Hay mối quan tâm của đại đội suốt một năm về việc con trâucủa họ sắp đẻ. Xuất phát từ tình yêu và lòng ngưỡng mộ so với con người, ở chỗ đứngcủa mình, Nguyễn Minh Châu đã tìm thấy được nét đẹp trữ tình nảy nở từ trong trận chiến.Hiện lên trong truyện ngắn của nhà văn, mỗi nhân vật có một tính cách, một số phận, mộthoàn cảnh sống và đấu tranh riêng nhưng nhìn chung họ là người tốt, là những cá nhântích cực, những cá nhân tích cực trong đời sống của cộng đồng. Nguyễn Minh Châu pháthiện, nhất định, ngợi ca phần ánh sáng tốt đẹp trong tâm hồn, phẩm cách con người.Chất giọng trữ tình thấm trong xúc cảm ngợi ca những người lính cao xạ (Câu chuyệntrên trận địa, Những vùng trời khác nhau), nam nữ thanh niên xung phong, những anhcán bộ cách mạng, những cá nhân tích cực yêu nước, giàu trí não trách nhiệm, nhiệttình trong tăng gia sản xuất, dũng cảm trong đấu tranh (Buổi tập cuối năm, Gốc sắn, Đấtrừng, Chuyện đại đội, Mảnh trăng cuối rừng…)Với giọng người hùng ca lạc quan phơi phới, tất cả chúng ta thấy Nguyễn Minh Châu nhưmột nghệ sĩ hát lên khúc ca đẹp nhất ca tụng cuộc sống vĩ đại của dân tộc trong thờichống Mỹ, giọng điệu ấy là những quyết tâm đấu tranh của những người chiến sĩ trênkhắp các nẻo đường. Trận chiến càng dữ dội thì phẩm chất người hùng càng sáng ngời, đólà giọng điệu đầy chất sử thi của những người người hùng, quyết không khuất phục trướckẻ thù. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tài năng, qua cách tạo nhịp, ông đã nhấn mạnhtinh thần quyết đấu của chiến sĩ, những quyết tâm tập luyện. Ta thấy nhà văn thật sựkhéo léo trong việc cùng một lúc vừa nêu cao ý chí đấu tranh, tập luyện của các chiến sĩ,vừa làm nổi trội lên trí não lạc quan của họ. Cuộc kháng chiến có khó khăn, ác liệt tớiđâu nhưng trong lòng mỗi người chiến sĩ vẫn giữ được niềm tin yêu vào cuộc sống, giúphọ cảm thấy lạc quan yêu đời hơn. Chính những lạc quan đó đã đã giảm đi một phầnnào căng thẳng đấu tranh và rút ngắn khoảng cách sử thi giữa các nhân vật với tác giả, độc giả.Nhưng sau tiếng cười, sự lạc quan là chứa chan một tấm lòng yêu nước. Đấy là giọngđiệu của một dân tộc đầy tự tin và giàu lòng yêu nước. Trong Mảnh trăng cuối rừng làgiọng chính chắn, chững chạc của chị Tính, giọng Lãm thâm trầm, khắc khoải, giọng củaNguyệt hồn nhiên, tự tin, giọng của chị Nguyệt lão yêu thương, dạy bảo, vun vén vàgiọng nhà văn nhẹ nhõm, ấm áp, tin tưởng… Toàn bộ làm ra tính đa thanh phức điệu củagiọng điệu hào sảng, ngợi ca, nhất định. Những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châuviết về chiến tranh nhưng lại bắt gặp sự vui tươi, lạc quan của những người lính hơ là sựnặng nề của chết chóc và bom đạn, các sắc thái hào hùng, đanh thép, vui tươi, dí dỏm vàhài hước… giúp cho giọng điệu trong truyện ngắn của ông phong phú hơn. Giọng vănanh hùng ca trong truyện ngắn của ông không chỉ là sự phản chiếu từ hiện thực sôi độngcủa chiến trường mà còn xuất phát từ nhiệt huyết trào dâng trong lòng tác giả.Gắn liền với giọng điệu người hùng ca là giọng điệu trữ tình, sâu lắng. Giọng điệunày xuất hiện trước vẻ đẹp của con người hiện lên trong khói lửa chiến tranh. Khác hẳnvới giọng người hùng ca có những âm điệu trầm bổng, hùng hồn, giọng điệu ở đây chấtchứa cả nổi niềm sâu lắng. Giọng điệu trữ tình còn trổ tài ở cách ngắt nhịp chậm rãi,nhịp điệu thong thả của câu văn trổ tài sắc nét tính năng tâm tình, đó là giọng điệu trànngập niềm đau của mẹ Lân, của Ngàn….Giọng điệu người hùng là giọng chủ đạo cho thời kì này nhưng nếu chỉ duy nhất mộtchất giọng hào hùng thì tác phẩm sẽ đơn điệu, thành ra Nguyễn Minh Châu sử dụnggiọng điệu trữ tình còn mang lại hiệu quả cao cho truyện ngắn của mình. Khi giọng điệutrữ tình và hào hùng vương đến đỉnh cao, sự hài hòa giữa giọng sử thi với giọng trữ tìnhsẽ tạo ra một giọng điệu vừa đanh thép nhưng cũng vừa sâu lắng, làm bớt đi vẻ khô cằncủa chiến tranh và tác phẩm trở nên sinh động, mê hoặc hơn. Có thể tìm thấy trong truyệnngắn của Nguyễn Minh Châu giọng điệu như vậy. “Bóng Ngạn đứng trước ngọn lửa nhưđược phóng to lên. Trong đêm rừng, đôi mắt thăm thẳm của Y Kiêu đọng một ánh lửaphản chiếu sáng rực không bao giờ tắt. Y Kiêu không nghe rõ tiếng Ngạn, chỉ nghe đượctiếng dội của vách núi. Sau khu rừng lim già là vách núi đá Pa-khen trần trụi và hùng vĩ,sương khuya phủ kín thung lũng. Từ trên đầu dốc núi Lào cao ngất và thanh vắng, nguồnsuối Pa-khen đỗ trắng xóa, ngọn suối sói vào lòng đất mang cả mối tình đầu mãnh liệtchợt réo như thác [3, tr. 18] (Ngồn suối). Sương xuống lạnh buốt trên vai tôi và Khai. Tôiđặt tay lên vai Khai, lay khẽ. Hai đứa chúng tôi cầm ngang súng tiểu liên, băng qua mặtđường còn khét mùi xăng. Gió thổi đến lộng óc, như chân trời phía nào đó bị thủng. Saolung linh. Những vì sao cũng trắng và hoang dại như cánh đồng khu trắng hai bên conđường vận chuyển của địch. Cánh đồng này, khi chúng tôi rút lui đi qua, lúa đang trổ cóvạt đã hoe vàng, thế mà bây giờ đã thành một cánh đồng hoang. Từ phía bờ tre ở xa nổilên mấy tiếng mõ lốc cốc, một phát súng trường nổ đơn độc rồi lại im lặng, lại nghe giórít trên bụi ôrô (Nhành mai). “Khoảng gần khuya, trên các chỏm rừng, gió tây nam cuốnmây xám về một gói rồi thổi giạt đi. Gió thổi vào cành lá ngụy trang trên nóc xe ràn rạt.Trên đầu chúng tôi, khoảng trời đêm trên cao trở nên trong vắt, cao lồng lộng, trongkhoảng sâu thẳm nổi lên một tiếng chim mơ hồ. Nhưng ở lưng các cánh rừng, sươngtrắng không biết từ đâu cứ đùn ra mãi. Dòng sông bên trái đường phút chốc biến mất,chỉ còn là sương trắng phủ kín, thảng hoặc mới thấy một chỏm rừng, một ngọn núi đábên kia sông nhô lên, đen đủi và cô độc giữa một màu trắng xóa. Xe tôi chạy trên lớpsương bềnh bồng. Mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như mảnh bạc.Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăng” [3, tr. 125] (Mãnh trăng cuối rùng).Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thỉnh thoảng thâm trầm, khắc khoải một giọngđiệu triết lý, suy ngẫm. Trí não xông xáo cùng ý thức trách nhiệm cao của người cầmbút đã thôi thúc nhà văn đi sâu tìm hiểu và cát nghĩa, lý giải mọi vấn đề của cuộc sống, từkhía cạnh yêu thương, hạnh phúc đến những dấu hiệu thường tình với toàn bộ ý vị sâu sắc,đắng cay của nó. Ở Nhành mai, người đọc nhận thấy giọng điệu triết lý, suy tư trong mạchcảm xúc chợt đến khi nhân vật “tôi” nghĩ về con suối xuôi hướng chảy về Tây Bắc “consông nào mà không có nguồn suối nhỏ đầu tiên” [3, tr. 9]. Trong cuộc sống cũng vậy, cóbao điều to tát, vĩ đại mà không bắt nguồn từ những điều giản dị, bình thường. Cũng nhưcuộc chiến vĩ đại mà dân tộc ta đang tiến hành, sẽ không là gì cả nếu không có những hysinh của người chiến sĩ để bảo vệ những cái rất thân thuộc: giếng nước, gốc đa, nụ cườihạnh phúc… bảo vệ vùng trời yêu thương, thân thuộc của quê hương mình. “Hạnh phúcngười ta trên đời chẳng biết đâu là cùng” [3, tr. 64], chỉ hai từ “hạnh phúc” (Những vùngtrời khác nhau) là sự suy ngẫm đầy nghiêm túc về vấn đề hạnh phúc mà từ rất sớmNguyễn Minh Châu đã bộc lộ niềm trằn trọc trong ngòi bút của mình giúp người đọc cónhững cảm nhận sâu sắc, thấm thía về những điều ngổn ngang, phúc tạp trong cuộc sống.Chịu ràng buộc của xu hướng sử thi và xúc cảm lãng mạn, xúc cảm anhhùng ca với âm điệu hào hùng, sảng khoái của thời kì chi phối giọng điệu của tác phẩm.Bên cạnh giọng điệu hào hùng, ngợi ca là giọng điệu trữ tình ấm áp với giọng điệu triết lý,suy ngẫm được xem là sự kết tinh, lắng lọc của những xúc cảm, những trằn trọc, trảinghiệm của tác giả giữa bao điều thật nhất giữa cuộc sống đời thường.KẾT LUẬNChiến tranh đó là một hoàn cảnh đặc biệt. Ðời sống của con người phải chịu đựngquy luật nghiệt ngã của chiến tranh. Sự sáng tạo văn nghệ của nhà văn không thể nằmngoài quy luật đó, văn học cần phải nhanh chóng thỏa mãn kịp thời nhu cầu của đời sốngchiến đấu, phải góp phần tuyên truyền khích lệ, phản ánh và lí giải hững vấn đề trongđời sống. Mặt khác, sáng tác trong hoàn cảnh đó, nhà văn để ý đến những vấn đề lớnlao của dân tộc, thời kì đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quá trình xây dựngXHCN ở miền Bắc. Vì lẽ đó, tất cả chúng ta dễ dàng nhận thấy: Cái riêng tư nhiều khi trở nênvô nghĩa trước cái chung vĩ đại. Những tình cảm cá nhân, gia đình được đặt trong mốiquan hệ với tình yêu Tổ quốc, tình cảm đối Ðảng và cách mạng. Hình tượng trung tâmcủa văn học giai đoạn này là hình tượng nhân dân người hùng, nhân dân là người viết nêntrang sử vàng chói lọi của dân tộc. Nhà văn thường viết nhiều về niềm vui và ít viết vềnỗi đau, mặc dù ai cũng hiểu rằng mất mát đau thương là điều không tránh khỏi. Có thểnói rằng, trong hoàn cảnh chiến tranh của dân tộc ở giai đoạn này, nhà văn viết với tháiđộ và cách nhìn như vậy là điều nhân đạo nhất. Trong đau thương khổ sở, con ngườiViệt Nam dồn sức nghĩ về tương lai, hướng về tương lai với một niềm tin sâu sắc đóchính là sức mạnh trí não mà chỉ những người trải qua những năm tháng đó mới có thểhiểu hết ý nghĩa của nó. Vì phát triển trong chiến tranh nên văn học Việt Nam ở thời kìnày vừa đậm đà chất lãng mạn, vừa có xu hướng sử thi.Truyện ngằn Nguyễn Minh Châu giai đoạn trước 1975 được xây dựng nên bởi nhiềuyếu tố văn nghệ. Yếu tố trước nhất phải nhắc đến là giọng điệu. Để xây dựng những tácphẩm sử thi hiện đại, Nguyễn Minh Châu đã sử dụng giọng người hùng ca lạc quan, phơiphới để nêu cao trí não đấu tranh lạc quan, yêu đời của các chiến sĩ. Họ đến với cáchmạng bằng toàn bộ sự hâm hở với niềm tin thắng lợi. Đi đôi với giọng điệu lạc quan làgiọng trữ tình sâu lắng. Con người sử thi không chỉ hùng hồn mà còn dạt dào xúc cảm.Thỉnh thoảng có sự phối hợp giữa hai giọng diệu tạo ra sự phong phú về giọng điệu cho tác phẩm.Cuộc sống con người và cảnh sắc thiên nhiên được Nguyễn Minh Châu mô tả một cáchsinh động và tinh tế với ngôn ngữ giản dị và mộc mạc nhưng để lại ấn tượng sâu đậmtrong lòng người đọc. Không gian và thời gian trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châucũng khá đặc biệt. Không gian hoành tráng, nguy nga nhưng thỉnh thoảng lại là không gian bìnhdị, đơn giản. Thời gian với cường độ nhanh, dồn dập, trổ tài khác khao, nguyện vọngcủa con người về một quốc gia độc lập, tự do. So với văn nghệ xây dựng nhân vật,thông qua việc mô tả ngoại hình và khắc họa tính cách nhân vật, tác giả đã cho ngườiđọc thấy được tính cách oai hùng, kiên định, kiên cường của con người Việt Nam trongkhói lửa chiến tranh.Nhìn chung, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu giai đoạn này hướng về Tổ quốc,hướng về những biến cố to lớn của cách mạng, của thời kì lịch sử. Đó là những đónggóp quý giá của một nhà văn có lương tâm, có trách nhiệm với quốc gia. Những đónggóp đó mang Nguyễn Minh Châu vào vị trí xứng đáng trong đội ngũ nhà văn chống Mỹ.Các nhà văn có cùng một tư tưởng, lý tưởng, cách nhìn nhưng Nguyễn Minh Châu đãtạo được cái riêng, cái mới mẻ là ông không chỉ ở văn phong thấm đẫm chất lý tưởng,lãng mạn mà còn là một nghệ sĩ luôn khao khát tìm hiểu, suy tư trong cuộc sống.TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Lại Nguyên Ân (2000), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.2. Nguyễn Minh Châu (2001), Nguyễn Minh Châu toàn tập (tập III), Nxb Văn học,Hà Nội.3. Nguyễn Minh Châu (2001), Nguyễn Minh Châu toàn tập (tập V), Nxb Văn học,Hà Nội.4. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.5. Hà Minh Đức (chủ biên) (2001), Tác phẩm văn học (bình giảng và phân tích),Nxb Văn học, Hà Nội.6. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học – Học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.7. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Từ điển văn học, Nxb Toàn cầu, Hà Nội.8. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà Nội.9. Nguyễn Thanh Hùng (1994), Nét đẹp và cái hay của Mảnh trăng cuối rừng, Tạpchí Văn nghệ Quân đội số 1/1994.10. Nguyễn Khải (1989), Nguyễn Minh Châu – Niềm hãnh diện của những ngườicầm bút, Tạp chí Văn nghệ số 7.11. Nguyễn Kiên (1970), Đọc Những vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu(Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 9), Tạp chí văn nghệ Quân đội số 9.12. Tôn Phương Lan (1994), Chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôi được giải,Nxb Văn học, Hà Nội.13. Phương Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.14. Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá (1994), Con đường đi vào toàn cầu nghệ thuậtcủa nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.15. Nguyễn Đăng Mạnh (1987), Một thời kì văn học mới, Nxb Văn học, Hà Nội.16. Nguyên Ngọc (1990), Lời nói đầu “Hội thảo nhân ngày giỗ đầu năm NguyễnMinh Châu”, Tạp chí Văn nghệ số 7/1990.17. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.18. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ tp Hồ ChíMinh.19. Ni Niculin (1988), Về Nguyễn Minh Châu và những sáng tác của anh, Tạp chíVăn nghệ số 21/1988.20. Nguyễn Thị Minh Thái (1985), Ấn tượng về nhân vật nữ của Nguyễn Minh Châu,Tạp chí Văn học số 3.21. Bùi Việt Thắng (1991), Vấn đề tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu,Nxb Văn Học, Hà Nội.22. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn “những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thểloại”, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.23. Trần Nho Thìn, Song Mộc (dịch) (2004), EM. Meletinsky “Thi pháp của huyềnthoại”, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.24. Ngọc Trai (1987), Sự tìm hiểu về con người Việt Nam qua truyện ngắn, Tạp chíVăn nghệ Quân đội số 10.25. Hoàng Trinh (chủ biên) (1987), Văn học – Cuộc sống – Nhà văn, Nxb Khoa họcxã hội, Hà Nội.MỤC LỤCPHẦN MỞ ĐẦU ………………………………………………….………….….11. Nguyên nhân chọn đề tài …………………………………………………………………….12. Lịch sử vấn đề ……………………………………………………………………….23. Mục đích tìm hiểu …………………………………………………………………34. Phạm vi tìm hiểu ………………………………………………………………….55. Phương pháp tìm hiểu …………………………………………………………….6CHƯƠNG I: TRUYỆN NGẮN – KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM;TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM …………………………………………………………………….71.1 Truyện ngắn …………………………………………………….………………….71.1.1 Khái niệm truyện ngắn …………………………….……………….………..71.1.2 Dấu hiệu thể loại truyện ngắn …………………………..…………………..91.1.3 Dấu hiệu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1954-1975 ……….……….……121.2 Tác giả và tác phẩm ……………………………………………………….………131.2.1 Tác giả Nguyễn Minh Châu ……………………………………………..….131.2.1.1 Cuộc sống ……………………………………………………………….131.2.1.2 Sự nghiệp sáng tác …………………………………………………….141.2.2 Giới thiệu một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975………..16CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮNNGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 1975 …………………………..…..….172.1 Hiện thực chiến tranh trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 …………..172.1.1 Những khó khăn khổ sở trong kháng chiến…………………………………182.1.2 Những mất mát, hy sinh trong trận chiến ……………………………………202.1.3 Những thắng lợi của trận chiến tranh………………………………………..232.2 Tiến trình xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc trong truyện ngắn Nguyễn MinhChâu trước 1975………………………………………………………………………..272.2.1 Những mặt tích cực của quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc …….……272.2.2 Một số tồn tại của quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc…………………322.3 Trí não yêu nước và chủ nghĩa người hùng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châutrước 1975 ……………………………………………………………..……………….352.3.1 Lòng câm thù giặc sâu sắc ……………………………………….……………352.3.2 Sẵn sàng đấu tranh bảo vệ quốc gia …………………………….….………362.3.3 Sẵn sàng là hậu phương vững chắc để phục vụ tiền tuyến ………..………..43CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮNNGUYỄN MINH CHAU TRƯỚC 1975………………………..………..473.1 Văn nghệ xây dựng nhân vật……………………………………………………473.1.1 Mô tả ngoại hình nhân vật……………………………………………….483.1.2 Văn nghệ trổ tài tính cách nhân vật…………………………………….513.1.2.1 Hành động nhân vật …………………………………………..……..513.1.2.2 Ngôn ngữ đối thoại ……………………………………………..……533.1.2.3 Ngôn ngữ độc thoại ……………………………………………..……583.2 Không gian và thời gian văn nghệ………………………………………………623.2.1 Không gian văn nghệ……………………………………………….……..633.2.2 Thời gian văn nghệ………………………………………………………….683.3 Ngôn từ văn nghệ………………………………………………………………..743.3.1 Văn nghệ sử dụng từ ngữ………………………………………….………743.3.2 Văn nghệ sử dụng cấu trúc ngữ pháp………………………………….…..773.3.3 Văn nghệ sử dụng các biện pháp tu từ……………………………….……813.4 Giọng điệu văn nghệ ……………………………………………………………82KẾT LUẬN………………………………………………………………………..86TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………88[…]… đoạn văn học trước và sau 1975, Nguyễn Minh Châu có những đóng góp to lớn cho nền văn học hiện đại Các tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975 khá tiêu biểu cho nền văn học thời kì kháng chiến chống Mỹ Đặc biệt, sau 1975 Nguyễn Minh Châu là một trong những “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” [15] (Nguyên Ngọc) của quá trình đổi mới văn học Năm 1959, Nguyễn Minh Châu đi dự hội… hướng tiếp cận hiện thực mới mẻ này, sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã góp phần phát xuất hiện những quy luật vận động sâu kín của đời sống nhân sinh thế sự và đạt tới một chiều sâu nhân bản mới CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 1975 2.1 Hiện thực chiến tranh trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 Giai đoạn văn học 1945 -1975 ra đời trong hoàn cảnh quốc gia chiến tranh,… hơn cho truyện ngắn thời kì này Ngoài lớp nhà văn trước như Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Công Hoan… nhất là sự xuất hiện của nhiều nhà văn như Vũ Tú Nam, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thi… Về nội dung phản ánh: Hầu hết nhà văn trước 1975 đều quán triệt tư tưởng lấy văn nghệ làm vũ khí như Phan Tứ, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu … mở, bộc lộ trọn vẹn tính cách Truyện ngắn Lặng lẽ Sapa của Nguyễn Thành Long, Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh, Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp, Những vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu là những truyện ngắn có chứa đựng những khoảnh khắc như vậy Có thể thấy, truyện ngắn có những đặc trưng về hình thức, đề tài, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ, thủ pháp văn nghệ Truyện ngắn thường mô tả lát cắt của… CHƯƠNG I: TRUYỆN NGẮN – KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM; TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1.1 Truyện ngắn – khái niệm và dấu hiệu 1.1.1 Khái niệm truyện ngắn Khái niệm truyện ngắn là một vấn đề mà nhiều nhà tìm hiểu còn thắc mắc và chưa thống nhất với nhau Vì vậy, trong phạm vi đề tài tìm hiểu này chúng tôi xin mang ra một số nhận định và ý kiến của một số nhà văn, nhà tìm hiểu trong và ngoài nước về khái niệm truyện ngắn. .. truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975 Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu đã dành trọn vẹn nửa đời văn của mình đi sâu, tìm hiểu, phản ánh hiện thực chiến tranh và người lính Truyện ngắn trước nhất Sau một buổi tập được in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1960 đánh dấu bước đi trước nhất của ông Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970) gồm bảy truyện ngắn, đa số được… nhưng cái mới mẻ của nó là ngắn gọn Nó chỉ là một đoạn đời nhân vật một lát cắt, một hiện tượng xã hội, một khoảnh khắc nội tâm của con người thông qua lăng kính của nhà văn Bởi truyện ngắn được viết ra để đọc liền một mạch, tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa phải là dấu hiệu đa số phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự loại khác 1.1.2 Đặc điểm truyện ngắn Truyện ngắn là một thể loại của loại… cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Minh Châu tiếp tục học trung học trong vùng kháng chiến Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An, Nguyễn Minh Châu tự nguyện vào quân đội Sau một khoá huấn luyện ngắn của trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Minh Châu về sư đoàn 320 làm cán bộ trung đội Trong những năm từ 1950 đến 1954, Nguyễn Minh Châu cùng nhà cung cấp đấu tranh… tập truyện ngắn đầu tay này, ngòi bút tác giả chưa phải đã thật sự già dặn trong văn nghệ kể chuyện, tổ chức kết cấu, tạo tình huống Một số truyện còn được xây dựng theo mạch kể chuyện khá đơn giản Đặc sắc hơn cả là truyện Mảnh trăng (về sau, khi in trong tuyển tập truyện ngắn có tên là Mảnh trăng cuối rừng) Mảnh trăng cuối rừng là truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Minh Châu trong những năm chống Mỹ Truyện. .. chỉnh sửa vừa làm phóng viên Tại đây, Nguyễn Minh Châu khởi đầu viết văn và cho in những truyện ngắn đầu tay nhưng chưa gây được sự lưu ý Sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu chỉ thật sự được nhất định trong thời kì kháng chiến chống Mỹ với hai cuốn tiểu thuyết Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970) Nguyễn Minh Châu đã có nhiều chuyến du ngoạn thực tiễn

Xem Thêm :   Dàn ý thuyết minh về cây bút bi lớp 8, 9 rất hay

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Giáo Dục

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung
Xem Thêm :  Mua cua rạm ở đâu có chất lượng và giá tốt nhất tp HCM?

Related Articles

Back to top button