Kiến Thức Chung

Các Phương Pháp So Sánh Trong Nghiên Cứu Khoa Học Là Gì, Phương Pháp Nghiên Cứu

Phương pháp so sánh là một phương pháp đã xuất hiện từ lâu trong tìm hiểu khoa học nói chung và trong tìm hiểu văn học nói riêng, bởi lẽ nó xuất phát từ một thực tiễn là so sánh là một yêu cầu rất tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày của con người. Từ cuộc sống, nó được mang vào trong tìm hiểu khoa học và dần dần trở thành một phương pháp rất hữu hiệu. Có thể nói ngắn gọn là nhìn chung, so sánh là để xác nhận sự vật mặt phẳng định tính, định lượng hoặc ngôi thứ trong mối tương quan với các sự vật khác.Bạn đang xem: Phương pháp so sánh trong tìm hiểu khoa học là gì

Tuy nhiên, trong tìm hiểu văn học, phương pháp so sánh có thể được ứng dụng chung cho toàn bộ các bộ môn, nhưng mỗi một bộ môn, việc ứng dụng phương pháp so sánh lại phải tuân thủ những quy định khác nhau. Trong bộ môn văn học sử dân tộc, phương pháp so sánh sẽ được tiến hành khác với trong bộ môn văn học sử toàn cầu, lại càng khác với trong bộ môn văn học sử so sánh, đó là vì tính chất và mục đích của mỗi bộ môn có khác nhau.

Bạn đang xem: Phương pháp so sánh trong tìm hiểu khoa học là gì

*

Ở đây tất cả chúng ta cần lưu ý một điều: không nên nhầm lẫn giữa hai khái niệm so sánh văn họcvăn học so sánh. So sánh văn học là một phương pháp thông dụng có thể được ứng dụng cho nhiều bộ môn; còn văn học so sánh là một bộ môn văn học sử nằm giữa văn học sử dân tộc và văn học sử toàn cầu. Về điều này, nhiều người còn có sự nhầm lẫn. Nhiều người khi nói đến “văn học so sánh” là chỉ nghĩ ngay đến “so sánh văn học”, vì họ tưởng rằng văn học so sánh chỉ sử dụng phương pháp so sánh. Ví dụ như nhà tìm hiểu người Liên Xô cũ Mikhail B.Khrapchenko đã viết: “Nghiên cứu văn học theo phương pháp so sánh thường được hiểu như việc khảo sát những mối liên hệ giữa các nền văn học khác nhau, như việc khám phá ra những ảnh hưởng và những mối quan hệ qua lại. Chính theo chiều hướng này, ngành nghiên cứu văn học so sánh hiện đang được nhiều nhà khoa học nước ngoài phát triển.” Thực chất “việc khảo sát những mối liên hệ giữa các nền văn học khác nhau” chính là tính năng – nhiệm vụ của bộ môn văn học so sánh, còn nhiệm vụ của phương pháp so sánh chỉ đơn thuần là so sánh các hiện tượng văn học với nhau, bất kể chúng thuộc các nền văn học khác nhau hay thuộc cùng một nền văn học. Rõ ràng nhiều người còn chưa hiểu thế nào là văn học so sánh, chưa hiểu rằng so sánh chỉ là một trong những phương pháp của văn học so sánh. Trong mục này tôi sẽ giới thiệu phương pháp so sánh nói chung chứ không trình bày bộ môn văn học so sánh, vì các bộ môn tìm hiểu văn học không thuộc đối tượng thăm dò của công trình này. Nhất là về bộ môn “văn học so sánh”, bản thân tôi đã có riêng một công trình chuyên luận nhan để Lý luận văn học so sánh (Nxb. KHXH xuất bản năm 1998; Nxb. ĐHQGHN tái bản năm 2000, 2003; Nxb. KHXH in lần thứ 5 có sửa chữa và bổ sung năm 2011; ), trong đó tôi đã giới thiệu lịch sử tạo dựng của bộ môn văn học so cánh trên toàn cầu và ở Việt Nam, đồng thời phân tích và rút ra những phép tắc phương pháp luận của nó.

Có thể nói, cùng với nhiều nhà tìm hiểu khác, bản thân tôi cũng đã đóng góp một phần nhỏ cho việc phát triển bộ môn văn học so sánh ở Viet Nam, làm sáng rõ về mặt lý luận và phương pháp luận thế nào là so sánh văn học và văn học so sánh, qua đó phát triển phương pháp so sánh cho tìm hiểu văn học nói chung. Đồng thời tôi cũng ứng dụng phương pháp so sánh để tìm hiểu một số đề tài thuộc văn học toàn cầu, một việc có thể được coi là “văn học so sánh ứng dụng”.

Ví dụ tôi đã viết một số bài in trong tập tiểu luận Tìm hiểu văn học – Lý luận và ứng dụng (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999 , như các bài: Huyễn tưởng văn học – một hình thái nhận thức thẩm mỹ; Thân phận con người và trách nhiệm của nhà văn trong văn học phương Tây hiện đại; Kafka với trận chiến chống phi lý; Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại – vài nhận xét tổng quan. Sau đó tôi cũng đã viết một công trình khảo luận thuộc ngành nghề văn học so sánh ứng dụng là Văn học phi lý (Nxb. Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 2002). (Tôi nói ra những điều này không phải là để kể công, mà chỉ muốn nói rằng người làm lý luận cũng phải biết thực hành ứng dụng, nếu không thì những ý kiến của mình sẽ ít có sức thuyết phục. Trên toàn cầu, hầu hết các nhà lý luận nổi tiếng như Barthes, Bakhtin, Goldmann, Jauss…, đều xây dựng và thực hành lý thuyết của mình qua những công trình tìm hiểu ứng dụng cụ thế. Vì thế, nếu ở Viet Nam có ai đó cho rằng lý luận thuần tuý là công việc của nhà lập thuyết, còn thực hành là công việc của các nhà tìm hiểu ứng dụng, thì đó chỉ là một sự nguy biến ở trốn tránh trách nhiệm và che giấu sự bất lực của mình.)

Xem Thêm :   BÁNH ƯỚT LÒNG GÀ đặc sản Đà Lạt, ăn rồi nhớ mãi | Bếp Của Vợ

Xem Thêm :  Brad Pitt

Và một điều đáng mừng là kể từ năm 1996, lần trước hết ngành nghề lý luận văn học so sánh đã được mang vào chương trình giảng dạy tại Khoa Văn học của Trường Đại học KHXH và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, với tư cách là một chuyên mục sau đại học do tôi đảm nhiệm. Từ đó đến nay, nhiều trường đại học khác trên toàn quốc đã triển khai giảng dạy chuyên mục này. Tôi nói “đáng mừng” là vì trước đó, văn học so sánh ở Viet Nam chưa được quan tâm thoả đáng, thậm chí có nhiều người vẫn chưa xác nhận vai trò và ý nghĩa của nó. Nhưng ở đây, khi đề cập đến phương pháp so sánh văn học nói chung tôi sẽ nói đến nó với tư cách là một phương pháp không biên giới, tức là một phương pháp ứng dụng cho toàn bộ các bộ môn tìm hiểu văn học chứ không phải chỉ dành riêng cho bộ môn văn học so sánh.

Như tất cả chúng ta biết, một sự vật không khi nào tồn tại một cách riêng biệt. Vì thế muốn tìm hiểu nó, tất cả chúng ta không thể chỉ mổ xẻ, phân tích nó một cách riêng biệt, mà còn phải tìm hiểu các mối quan hệ phong phú và đa chiều của nó. Để làm được điều đó, tất cả chúng ta có thể ứng dụng một phương pháp rất thông dụng là so sánh. Như vậy, ích lợi lớn nhất của phương pháp so sánh là nó giúp cho tất cả chúng ta hiểu rõ bản chất và vị trí của một hiện tượng văn học trong các mối tương quan đa chiều của nó. Trí não cơ bản của phương pháp so sánh là hiểu một sự vật thông qua các sự vật khác. Đây chính là một trong những phương châm thông dụng của nhận thức luận từ xưa đến nay. Một ví dụ điển hình cho phương châm này là câu ngạn ngữ thông dụng của nhiều dân tộc: “Hãy nói cho tôi biết các mối quan hệ của anh, tôi sẽ nói anh là ai”. Tất nhiên, chữ “quan hệ” phải được hiểu theo nghĩa đa chiều: có thể là quan hệ tương đồng, thân thiện, nhưng cũng có thể là quan hệ tranh chấp, đối lập, vv…

Trong tìm hiểu văn học, ta có thể so sánh một hiện tượng văn học với các hiện tượng cùng loại, nhưng cũng có thể so sánh với cả các hiện tượng đối lập để làm nổi trội bản chất của cái hiện tượng được đem ra so sánh. Việc so sánh như vậy sẽ giúp ta thấy rõ bản chất của hiện tượng, từ đó xác nhận được vị trí của nó trong một hệ thống và nhận xét được ý nghĩa của nó trong hệ thống đó. Đây cũng chính là mục đích của các bộ môn văn học sử nói chung.

Thực tiễn, một sự vật nếu chỉ được nhận thức bằng chính nó thì ta khó có thể nhìn thấy được bản chất của nó, nhưng nếu ta phát xuất hiện được các mối quan hệ của nó, thì nhiệm vụ nhận thức của tất cả chúng ta sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều. Ví dụ ở Việt Nam có một đề tài được coi là đề tài lớn của văn học so sánh, đó là đề tài Truyện Kiều. So với Truyện Kiều, nếu chỉ tìm hiểu một cách riêng biệt, thì những kết quả thu được sẽ rất hạn chế, thậm chí có thể sẽ dẫn theo những tổng kết sai lệch, bởi lẽ Truyện Kiều có một mối quan hệ tác động và vay mượn rất rõ ràng so với nguyên mẫu của nó là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Do đó khi tìm hiểu Truyện Kiều, tất cả chúng ta không thể không so sánh nó với Kim Vân Kiều truyện. Và thực tiễn là đã có rất nhiều công trình tìm hiểu so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện.

Xem Thêm :   PU VÀ CHOANG RẤT LẦY LỘI | CÁCH ĐI ĐẾN SỰ KIỆN PUCHOANG’S DAY

Xem Thêm :  Cách chúc mừng sinh nhật bằng tiếng anh [trọn bộ]

Tiếc thay, rất nhiều người khi tìm hiểu so sánh Truyện Kiều thường hay xuất phát từ một thành kiến về sự hơn thua. Họ đã có sẵn trong đầu cái thành kiến không cần minh chứng về sự hơn hẳn của Truyện Kiều của Nguyễn Du so với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Ví dụ trong quyển sách Tìm hiểu phong thái Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc, ở cuối sách tác giả tuyên bố rất rõ ràng rằng: “Điều khó nhất là thái độ chân thành, triệt để khách quan, nỗ lực phân tích đến cùng cái mỹ cảm của mình, chỉ tin vào cái gì được quy ra thành quan hệ rõ ràng và tách bạch, không để cho một định kiến nào chi phối, dù định kiến ấy có được cả giới ngôn ngữ học thừa nhận”, nhưng ngay từ đầu cho đến khi kết thúc quyển sách thì ông lại để cho mình bị chi phối bởi cái thành kiến rất to lớn về sự hơn thua, đến nỗi ông không hề nhìn thấy những sự giống nhau hiển nhiên giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, mà lại cố công đi tìm những chỗ được ông gọi là sự “đối lập” giữa hai tác giả, đến mức ông đã không thận trọng để đi đến chỗ tạo ra một “hiện trường sai lệch”: đó là việc ông lấy nhầm lời bình được coi là của Kim Thánh Thán ở đầu hồi I của Kim Vân Kiều truyện, cho nó là chính văn của Thanh Tâm Tài Nhân, để đi đến tổng kết là tư tưởng trong Kim Vân Kiều truyện là “mâu thuẫn giữa tình và khổ” chứ không phải là “tài mệnh tương đố”, và rằng tư tưởng “tài mệnh tương đố” là của riêng Nguyễn Du chứ không phải của Thanh Tâm Tài Nhân! Chẳng cần phải tìm đâu xa, chẳng cần phải mất công đem cả nền văn hoá Trung Hoa ra để minh chứng cho luận điểm là trong văn hoá Trung Hoa không có thuyết “tài mệnh tương đố”(!) như Phan Ngọc đã cất công tiến hành, mà chỉ cần kiên nhẫn đọc hết Kim Vân Kiều truyện cũng thấy ngay rằng từ đầu đến cuối truyện, Thanh Tâm Tài Nhân đã thấm nhuần tư tưởng “tài mệnh tương đố” như vậy nào. Chuyện nhầm lẫn này đã xảy ra từ lần xuất bản đầu vào năm 1985, đáng ra cũng chẳng cần phải nhắc lại, nhưng đến lần tái bản năm 2001, tức là sau 16 năm, Phan Ngọc vẫn để nguyên không sửa (tr. 42), mặc dù từ đó đến nay bản thân tôi đã có nhiều lần nói rõ vấn đề này trên sách báo. Quyển sách của Phan Ngọc là một quyển sách có giá trị khoa học nhất định trong việc tìm hiểu phong thái văn nghệ của Nguyễn Du. Đây là kết quả của việc ông đã dành nhiều tâm huyết cho phần tìm hiểu hình thức Truyện Kiều. Giá như phần tìm hiểu nội dung cũng được ông để ý như vậy thì chắc là sẽ không xảy ra sự nhầm lẫn đáng tiếc nói trên.

Cùng thời với quyển sách Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan cũng đã sử dụng phương pháp so sánh một cách tự giác trong công trình Nhà văn hiện đại (xuất bản tại Hà Nội năm 1942 – 1943). Trong công trình này, Vũ Ngọc Phan không chỉ so sánh các nhà văn Việt Nam với nhau, mà ông còn so sánh họ với các nhà văn của nước ngoài. Như vậy, công trình của ông vừa mang tính chất của văn học sử dân tộc vừa mang tính chất của văn học so sánh.

Gần đây, cố GS Phan Cự Đệ đã có một công trình tìm hiểu công phu về cả Thơ Mới lẫn văn xuôi lãng mạn Việt Nam, trong đó ông ứng dụng phương pháp so sánh một cách khá kỹ lưỡng để làm rõ những dấu hiệu của dòng văn học này. Đó là công trình Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 – 1945), (Nxb. Văn học, Hà Nội, 2002), .

Xem thêm: Tư Tưởng Chính Trị Là Gì – Vai Trò Của Nhà Nước Trong Hệ Thống Chính Trị

Đến nay, phương pháp so sánh và văn học so sánh không còn là điều mới lạ so với phần lớn các nhà tìm hiểu văn học của Viet Nam. Thậm chí trong một số trường hợp, nếu không sử dụng phương pháp so sánh thì ta khó có thể nắm bắt được bản chất của sự việc.

Xem Thêm :   Slime Trong Để Ngoài Trời 45 Ngày Sẽ Ra Sao? Thử Thách Slime Kinh Dị | BABYKOPO HOME

Xem Thêm :  TOP 20 Khách Sạn gần SÔNG HÀN Đà Nẵng – Ưu đãi hôm nay

Ví dụ như so với một số hiện tượng văn học tiên tiến nhất của tất cả chúng ta hiện tại như Phạm Thị Hoài và Nguyễn Việt Hà, nếu tất cả chúng ta chỉ phê bình tác phẩm của họ bằng cách mổ xẻ tác phẩm của họ một cách riêng biệt, thì tất cả chúng ta không thể nhận xét được chuẩn xác bản chất của hiện tượng. Phê bình như vậy, tất cả chúng ta dễ bị gán cho chứng bệnh chủ quan, áp đặt. So với hai hiện tượng đó, tất cả chúng ta phải so sánh chúng với các hiện tượng văn học cùng loại của phương Tây thì mới xác nhận được đúng tên gọi của chúng, từ đó mới nhận xét được ưu thế và nhược điểm của chúng. Việc này chúng tôi đã tiến hành trong công trình chuyên luận văn học phi lý. Qua việc so sánh Phạm Thị Hoài và Nguyễn Việt Hà với văn học phi lý phương Tây, chúng tôi muốn nói rằng hai nhà văn này đã có ý muốn đổi mới mô hình tiểu thuyết, họ đã tiếp thụ cái tư tưởng của văn học phi lý để phê phán sự tha hoá và lối sống bè cánh, nhưng sự phê phán của họ thiếu chiều sâu của chủ nghĩa nhân đạo và của tình yêu đồng loại.

Tuy nhiên, so sánh là một công việc tương đối nhạy cảm, bởi lẽ nó đụng chạm đến nhiều partner. Khi so sánh, ta không chỉ phải nhận xét cái hiện tượng được đem ra so sánh, mà còn phải nhận xét cả các partner so sánh của nó. Chính vì vậy, khi so sánh tất cả chúng ta phải quán triệt thái độ thận trọng. Để làm được điều này, tôi cho rằng tất cả chúng ta cần tuân thủ một số phép tắc cơ bản sau đây:

1. Phép tắc khách quan, phi thành kiến. Theo phép tắc này, khi so sánh ta phải dựa vào thực tiễn khách quan chứ không được xuất phát từ một thành kiến nào đó để đi minh chứng cho cái thành kiến đó. Điều này thường hay xảy ra khi các nhà tìm hiểu phải so sánh hai hiện tượng văn học thuộc hai nền văn học khác nhau. Ví dụ khi so sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, ta không nên xuất phát từ thành kiến cho rằng vì Truyện Kiều là một tuyệt tác rồi nên Kim Vân Kiều truyện chỉ có thể là một tác phẩm “tầm thường”. Ở đây, nhiều khi người ta dễ bị cám dỗ bởi lòng tự tôn dân tộc thái quá mà quên đi phép tắc khách quan trong tìm hiểu.

2. Phép tắc so sánh cùng loại khi phân hạng thứ bậc. Một trong những tính năng của so sánh là phân hạng thứ bậc, nhưng khi phân hạng thứ bậc thì các vế so sánh phải thuộc cùng một loại. Tương tự như trong thể thao, mỗi môn thi đấu đều phải được phân loại theo giới tính, độ tuổi,… Theo phép tắc này, trong tìm hiểu so sánh văn học và văn học so sánh, việc phân hạng chỉ được diễn ra trong cùng một hệ thống. Trong một ngành nghề văn hoá trí não tế nhị như vậy này, người ta không chấp thuận có sự phân hạng thứ bậc giữa các nền văn học dân tộc. Kiểu nhận xét phân hạng như vậy sẽ dẫn theo chủ nghĩa sôvanh, kỳ thị chủng tộc.

3. Phép tắc so sánh liên nghề. Một sự việc có thể có nhiều cách nhìn nhận, nhận xét. Nhìn từ một góc độ, ta có thể tưởng nó là hoàn hảo, nhưng nhìn từ một góc độ khác ta lại thấy nó có khiếm khuyết. Nhìn từ nhiều góc độ sẽ giúp ta tiếp cận đa diện so với vấn đề. Đây chính là trí não của phép tắc so sánh liên nghề. So sánh đa diện hay liên nghề sẽ giúp ta nhận xét chuẩn xác và toàn diện sự việc.

Tóm lại, phương pháp so sánh trong tìm hiểu văn học là một phương pháp thông dụng, dễ thao tác nhưng cũng dễ mắc phải chứng bệnh chủ quan, áp đặt thiên kiến. Việc nắm vững các phép tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cách tốt nhất giúp tất cả chúng ta đạt được những kết quả khách quan và khoa học.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Món Ăn

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung

Related Articles

Back to top button